Tấn Minh Đế (晋明帝/晉明帝, bính âm: Jìn Míngdì,) (299 – 18 tháng 10, 325), tên thật là Tư Mã Thiệu (司馬紹), tên tự Đạo Kỳ (道畿), là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Đông Tấn, cũng như là Hoàng đế thứ 7 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gia trị vì ngắn ngủi của mình (323-325), ông đã lãnh đạo một triều Tấn suy yếu thoát ra khỏi sự chi phối của Vương Đôn (王敦), song sau khi ông băng hà, đế quốc được giao lại cho người con trai còn trẻ của ông là Thành Đế, tình trạng cân bằng quyền lực mà ông đã gây dựng nên đã nhanh chóng bị phá vỡ, dẫn đến Loạn Tô Tuấn (蘇峻) và khiến cho Đông Tấn suy yếu hơn nữa.
Đầu đời
Tư Mã Thiệu sinh năm 299, là con trai cả của Tư Mã Duệ và người tì thiếp có địa vị thấp kém là Tuân phu nhân, năm 300 bà sinh được một người con trai khác là Tư Mã Bầu (司馬裒). Vợ của Tư Mã Duệ, Ngu Mạnh Mẫu (虞孟母) không có con cái, đã rất ghen tị với Tuân phu nhân và hành hạ bà rất nhiều. Tuân phu nhận không thể chịu đựng nổi, đã kêu nài và bị đẩy ra khỏi gia đình. Tư Mã Thiệu do vậy lớn lên bên cạnh Ngu Mạnh Mẫu, và dường như ông đã có một mối quan hệ thân thiết với bà. Khi còn thơ ấu, ông được coi là người thông minh và nhanh trí, mặc dù vậy, cuối cùng em trai ông là Tư Mã Bầu đã ngày càng được cha sủng ái. Một số nguồn cho rằng mẹ của Tấn Minh Đế, Tuân phu nhân là người Tiên Ti.
Trong khi Tư Mã Duệ trở thành Tả thừa tướng dưới quyền Tấn Mẫn Đế, một Tư Mã Thiệu còn ở độ tuổi thiếu niên đã được giao phụ trách bảo vệ Quảng Lăng. Tư Mã Duệ xưng Tấn vương sau khi Mẫn Đế bị quân Hán Triệu bắt giữa vào năm 316, ông ban đầu muốn đưa Tư Mã Bầu làm thái tử, nhưng sau khi Vương Đạo (王導) chỉ ra rằng theo truyền thống thì con trai cả nên là người kế vị, Tư Mã Thiệu đã được lập làm thái tử. Tư Mã Thiệu vẫn có địa vị này sau khi cha của ông xưng đế (Nguyên Đế) vào năm 318, sau khi Hán Triệu sát hại Mẫn Đế.
Vai trò thái tử
Trong thân phận thái tử, Tư Mã Thiệu đã cho tìm kiếm những người có tài và đối xử tốt với họ, coi họ như bạn bè thay vì là thuộc cấp. Trong số này có Vương Đạo, Dữu Lượng (庾亮, có em gái Dữu Văn Quân kết hôn với Tư Mã Thiệu), Ôn Kiệu (溫嶠), Hoàn Di (桓彝), và Nguyễn Phóng (阮放). Ông cũng được người đời biết đến với tấm lòng hiếu thảo và các học văn chương. Ông sau đó cũng học thêm võ thuật và thường đến thăm binh lính để khuyến khích họ.
Khi Vương Đôn nổi loạn chống lại Nguyên Đế vào năm 322, kinh thành Kiến Khang đã dễ dàng lọt vào tay họ Vương. Sau khi hay tin Vương Đôn đã chọc thủng tuyến phòng thủ của Kiến Khang, Thiệu Thái tử đã tự mình đến để làm người kháng cự cuối cùng, song Ôn Kiệu đã ngăn ông lại bằng cách cắt đứt những sợi dây thừng khỏi chiến mã của ông. Khi Vương Đôn buộc Nguyên Đế phải khuất phục, y đã nghĩ đến việc phế Thiệu Thái tử bằng cáo buộc sai trái rằng Thái tử không nghe theo lời Nguyên Đế. Tuy nhiên, Ôn Kiệu đã ngăn chặn điều này bằng cách công khai ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Thái tử, khiến cho lời cáo buộc giả dối của Vương Đôn không còn đáng tin cậy.
Đầu năm 323, Nguyên Đế mất trong đau buồn sau khi bị Vương Đôn đánh bại. Thiệu Thái tử kế vị và trở thành Minh Đế.
Trị vì
Một trong những điều đầu tiên mà Minh Đế thực hiện là tìm mẹ đẻ và đưa bà vào cung. Tuy nhiên, ngoài lòng kính trọng cho người mẹ kế đã chết (mất năm 312 song vẫn có thụy hiệu Hoàng hậu), thì ông không bao giờ ban cho bà thụy hiệu của một hoàng thái hậu và Minh Đế thể hiện sự kính trọng đối với gia tộc của người mẹ kế như đối với gia tộc của một người mẹ, ông đặc biệt gần gũi với anh em trai của Ngu Mạnh Mẫu là Ngu Dận (虞胤). Một vài tháng sau khi lên ngôi, Tuân phu nhân được đưa vào cung. Minh Đế cũng lập vợ mình làm hoàng hậu.
Vương Đôn không suy nghĩ nhiều về vị hoàng đế mới và âm mưu đoạt ngôi. Vào mùa hè năm 323, Minh Đế triệu Vương Đôn đến kinh thành, song thực tế là Vương đã không đến đó mà di chuyển từ bản doanh Vũ Xương (武昌, tại Ngạc Châu, Hồ Bắc) đến Cô Thục (姑孰, nay thuộc Mã An Sơn, An Huy), gần kinh thành hơn. Khi Minh Đế bổ nhiệm Si Giám (郗鑒) làm chỉ huy quân sự tại Hợp Phì, vị trí ở phía sau Vương, Vương chống lại, và Minh Đế buộc phải triệu hồi Si Giám.
Năm 324, Vương Đôn bị bệnh, và trở nên quyết tâm trong việc lật đổ nhà Tấn và khi đó con trai nuôi của ông ta là Vương Ứng (王應) có thể trở thành hoàng đế. Ông cũng coi Ôn Kiệu là một trợ thủ tin tưởng, song Ôn lại trung thành với Minh Đế và đã về Kiến Khang báo cho Minh Đế kế hoạch của Vương, cũng như việc Vương bị ốm. Vương Đạo, cũng là người trung thành với Minh Đế, sau đó nói dối với quân triều đình rằng Vương Đôn đã chết để tăng thêm tình thần cho họ, Minh Đế đã củng cố quân đội bằng cách cho binh sĩ chiến đấu thử nghiệm ở biên giới phía bắc với Hậu Triệu rồi trở về kinh thành. Vương Đôn sau đó cử quân đông tiến về Kiến Khang, cầm quân là Vương Hàm (王含, cha ruột của Vương Ứng) và Tiền Phượng (錢鳳), song không thể đánh bại một cách dứt khoát quân triều đình. Quân triều đình sau đó tấn công và đánh bại Vương Hàm. Vương Đôn sau khi nghe tin thất bại ban đầu này đã chết. Quân triều đình sau đó đánh bại hoàn toàn quân của Vương Hàm, buộc Vương Hàm và Vương Ứng phải chạy trốn, song họ đã bị người anh em của Vương Đôn là Vương Thư (王舒) bắt giữ, Vương Thư đã cho dìm chết hai người này để tỏ lòng trung thành của mình.
Năm 325, Minh Đế ban thụy hiệu cho các quan đã chết trong tay của Vương Đôn trong suốt các năm ông ta chi phối triều đình với tước hiệu và danh hiệu. Ông cũng phong cho Đào Khản, được biết đến với tài quân sự và quản trị, phụ trách hầu hết các lãnh địa cũ của Vương Đôn, bao gồm cả Kinh Châu (荊州, Hồ Bắc ngày nay).
Vào mùa thu năm 325, Minh Đế phát bệnh. Ông giao phó cho con trai bốn tuổi của mình, Diễn Thái tử, cho một nhóm đại thần, bao gồm Tư Mã Dạng (司馬羕, Vương Đạo, Biện Khổn (卞壼), Si Giám, Dữu Lượng, Lục Diệp (陸瞱), và Ôn Kiệu, có lẽ với ý định rằng việc này sẽ giúp cân bằng quyền lực. Ông qua đời khi chỉ mới 26 tuổi. Thế cân bằng quyền lực mà ông để lại nhanh chóng bị phá vỡ, tuy nhiên, Dữu Hoàng thái hậu đã trở thành người nhiếp chính, và anh trai của bà là Dữu Lượng trở thành vị đại thần có quyền lực tối thượng, cuối cùng Tô Tuấn và Tổ Ước (祖约) đã tiến hành nổi loạn gây tổn hại cho Đông Tấn trong nhiều năm.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Minh Đế** (晋明帝/晉明帝, bính âm: Jìn Míngdì,) (299 – 18 tháng 10, 325), tên thật là **Tư Mã Thiệu** (司馬紹), tên tự **Đạo Kỳ** (道畿), là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Đông
**Tấn Thành Đế** () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là **Tư Mã Diễn** (司馬衍), tên tự **Thế Căn** (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Tấn Khang Đế** () (322 – 17 tháng 11 năm 344), tên thật là **Tư Mã Nhạc** (司馬岳), tên tự **Thế Đồng** (世同), là vị Hoàng đế thứ 4 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Tấn Mục Đế** () (343 – 10 tháng 7 năm 361), tên thật là **Tư Mã Đam** (司馬聃), tên tự **Bành Tử** (彭子), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Cung Đế** () (386–421), tên thật là **Tư Mã Đức Văn** (司馬德文) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Đông Tấn và là Hoàng đế cuối cùng của triều đại Nhà Tấn trong
**Tấn Phế Đế** (, (342 – 23 tháng 11 năm 386), tên thật là **Tư Mã Dịch** (司馬奕), tên tự **Diên Linh** (延齡), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Minh Đế** (chữ Hán: 明帝) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách * Đường
**Giả quý nhân** (chữ Hán: 贾贵人; ? - ?) là một phi tần của Hán Minh Đế Lưu Trang, hoàng đế thứ hai nhà Đông Hán và sinh mẫu của Hán Chương Đế Lưu Đát,
**Tấn Ai Đế** () (341 – 30 tháng 3 năm 365), tên thật là **Tư Mã Phi** (司馬丕), tên tự **Thiên Linh** (千齡), là vị Hoàng đế thứ 6 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Mẫn đế** (chữ Hán: 晋愍帝, 300-318), tên thật là **Tư Mã Nghiệp** (司馬鄴), tên tự là **Ngạn Kì** (彥旗) là vị vua thứ năm của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Gia
**Hậu Tấn Xuất Đế** hay Thiếu Đế **Thạch Trọng Quý** (914-974), là vị vua thứ hai của nhà Hậu Tấn. Ông trị vì từ năm 942 tới năm 946. ## Sơ kỳ Thạch Trọng Quý
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Nam Tề Minh Đế** (chữ Hán: 南齊明帝; 452–498), tên húy là **Tiêu Loan** (), tên tự **Cảnh Tê** (景栖), biệt danh **Huyền Độ** (玄度), là vị vua thứ năm của triều Nam Tề trong lịch
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Tiền Tần** (350-394) là một nước trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Đông Tấn (265-420). Nước này do thủ lĩnh bộ tộc Đê là Bồ Hồng sáng lập
**Tây Lương Minh Đế** (西梁明帝, 542 – 585), tên húy **Tiêu Khuy** (), tên tự **Nhân Viễn** (仁遠), là một hoàng đế của chính quyền Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như phụ
**Pháp y Tần Minh: Chứng từ vô thanh** (tiếng Trung: 法医秦明之无声的证词, _Fǎyī qín míngzhī wúshēng de zhèngcí_; tiếng Anh: **Medical Examiner Dr. Qin: Silent Evidence**) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc năm 2021,
**_Tàn ngày để lại_** (tựa gốc tiếng Anh: **_The Remains of the Day_**) là một cuốn tiểu thuyết ra mắt năm 1989 được viết bởi tác giả người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro. Nhân vật
**_Pháp y Tần Minh: Kẻ Nhặt Rác_** (: 清道夫) là một Bộ phim truyền hình trực tuyến Trung Quốc năm 2017 được chuyển thể từ Quyển 4: Kẻ Dọn Rác (清道夫) trong bộ tiểu thuyết
**_Thời gian để yêu_** (hay **_Cánh cung 2_**) là album phòng thu thứ hai của nhạc sĩ Đỗ Bảo, được phát hành vào ngày 25 tháng 9 năm 2008 bởi Viết Tân. Sau thành công
**_Trường Nguyệt Tẫn Minh_** (tiếng Trung: 长月烬明; bính âm: _Cháng Yuè Jìn Míng_; tiếng Anh: _Till The End Of The Moon_) là bộ phim truyền hình Trung Quốc được cải biên từ tiểu thuyết _Hắc
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế
**Minh Điệu Mao hoàng hậu** (chữ Hán: 明悼毛皇后; ? - 22 tháng 9, năm 237), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Ngụy Minh đế Tào Duệ. ## Tiểu sử Minh Điệu Mao
**Bắc Chu Minh Đế** (北周明帝) (534–560), tên húy là **Vũ Văn Dục** (宇文毓), biệt danh **Thống Vạn Đột** (統萬突), là một vị hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Hồ Hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后) là Hoàng hậu duy nhất của Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Lịch sử không có nhiều ghi chép về Hồ thị.
**_Pháp y Tần Minh_** () là một bộ phim truyền hình trực tuyến Trung Quốc năm 2016 được chuyển thể từ _Quyển 3: Ngón tay thứ mười một_ (tiếng Trung: 第十一根手指) trong bộ tiểu thuyết
Dạy Con Làm Giàu 4 - Con Giàu Con Thông Minh - Để Có Khởi Đầu Thuận Lợi Về Tài Chính Đúng như những gì được chiêm nghiệm Cuộc sống bắt đầu từ nhận thức
Gương Cầm Tay Mini Hàn Quốc Dễ Thương - Gương Soi Bỏ Túi Trang Điểm (Giao mẫu ngẫu nhiên) _ Tân Minh (Doraemon) - Xinh xắn, nhỏ gọn tiện dụng. Có thể bỏ túi xách
**Văn Minh Đế** (_chữ Hán_:文明帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách * Tiền Yên Văn Minh Đế (truy tôn,
**_Ngày tàn của đế quốc_** (tên tiếng Anh: **_Civil War_**, hay _Nội Chiến_) là bộ phim phản địa đàng sử thi hành động của đạo diễn kiêm biên kịch Alex Garland. Phim có sự tham
**_Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba – Lịch sử Đức Quốc Xã_** (nguyên tác tiếng Anh: _The Rise and Fall of the Third Reich: A History of Nazi Germany_) là
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
Một nông dân [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập cổ đang cày ruộng bằng cày có bò kéo]] nhỏ|300x300px|[[Ai Cập cổ đại là một ví dụ điển hình của một nền văn hóa sơ khai được
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu