✨Lưu Nghị (Đông Tấn)

Lưu Nghị (Đông Tấn)

Lưu Nghị (, ? – 412), tự Hi Nhạc, tên lúc nhỏ là Bàn Long, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.

Đánh đuổi Hoàn Huyền

Ông cụ là Lưu Cự, làm Quảng Lăng tướng. Chú là Lưu Trấn, làm Tả quang lộc đại phu.

Lưu Nghị từ nhỏ có chí lớn, không chăm lo sản nghiệp gia đình, ban đầu làm Tòng sự ở Châu, được Hoàn Hoằng dùng làm Trung binh tham quân thuộc. Hoàn Huyền soán vị, Nghị cùng bọn Lưu Dụ, Hà Vô Kị, Ngụy Vịnh Chi khởi nghĩa, ngầm mưu dẹp Huyền, Nghị dẹp Từ Châu thứ sử Hoàn Tu ở Kinh Khẩu, Thanh Châu thứ sử Hoàn Hoằng ở Quảng Lăng. Lưu Dụ soái bọn Nghị đến Trúc Lý, Huyền sai bộ tướng Hoàng Phủ Phu, Ngô Phủ Chi chống lại nghĩa quân, gặp nhau ở Giang Thừa, lâm trận chém Phủ Chi, tiến đến cầu La Lạc, lại chém đầu Phu.

Huyền cả sợ, sai Hoàn Khiêm, Hà Đạm Chi đóng đồn ở núi Phúc Chu. Bọn Nghị đến Tương Sơn, Dụ sai những người gầy yếu lên núi, cắm thật nhiều cờ xí, Huyền không đếm xuể, càng thêm sợ hãi. Binh sĩ của bọn Khiêm phần nhiều là quân Bắc phủ, không muốn chống lại Dụ, nên không chịu ra đánh. Dụ cùng bọn Nghị chia làm mấy đội, xông vào trận địa của Khiêm, đều dốc sức tử chiến, không ai là không lấy một địch trăm. Gặp lúc gió đông bắc nổi lớn, nghĩa quân phóng hỏa, khói bụi mù trời, tiếng trống dồn dập chấn động kinh thành, các cánh quân của bọn Khiêm tan rã bỏ trốn.

Huyền chạy về phía tây, Dụ lấy Nghị làm Quan quân tướng quân, Thanh Châu thứ sử, cùng Hà Vô Kị, Lưu Đạo Quy đuổi theo Huyền. Huyền bức bách Tấn An đế và Lang Tà vương đi cùng, Nghị và Đạo Quy cùng bọn Hạ Bi thái thủ Mạnh Hoài Ngọc đuổi kịp Huyền. Đôi bên giao chiến ở Tranh Vanh châu, Nghị nương theo chiều gió phóng hỏa. Không còn nhuệ khí, quân của Huyền tan rã, đốt bỏ quân nhu, chạy trốn trong đêm. Tướng của Huyền là bọn Quách Thuyên, Lưu Nhã tập kích, chiếm được Tầm Dương, Nghị sai Vũ uy tướng quân Lưu Hoài Túc đánh dẹp.

Trấn áp phiến quân

Sau khi Huyền chết, Hoàn Chấn, Hoàn Khiêm mấy lần tụ quân chống Nghị ở Linh Khê. Tướng của Huyền là Phùng Cai đem quân giúp Chấn, Nghị tiến công, bị Chấn đánh bại, lui về Tầm Dương, chịu miễn quan, sau đó được khôi phục. Lưu Dụ lệnh cho Hà Vô Kị chịu sự chỉ huy của Nghị, Vô Kị không bằng lòng, thường tự ý làm việc. Nghị ghét Vô Kị không nghe lệnh, miễn chức Lang Tà nội sử của ông ta, lấy cớ Vô Kị là Phụ quốc tướng quân, cần chuyên tâm coi việc quân, nên Vô Kị cùng ông bất hòa. Nghị bèn tự nhận lỗi về mình, người thời ấy cho ông là đúng.

Nghị mấy lần cùng Đạo Quy đưa quân ra khỏi Tầm Dương. Hoàn Lượng tự đặt hiệu là Giang Châu thứ sử, ông sai Lưu Kính Tuyên đánh đuổi hắn. Nghị đến Hạ Khẩu. Khi ấy đồng đảng của Hoàn Chấn là Phùng Cai đóng quân ở Đại Ngạn, Mạnh Sơn Đồ chiếm cứ Lỗ Thành, Hoàn Sơn Khách giữ lũy Yển Nguyệt, lên đến vạn người, thuyền hạm nối dài hai bên bờ, thủy lục nương tựa nhau. Nghị đốc quân đánh dẹp, chưa đến Phức Khẩu, gặp gió thổi mất hơn ngàn người. Ông cùng bọn Lưu Hoài Túc, Tác Mạc đánh Lỗ Thành, Đạo Quy đánh lũy Yển Nguyệt, Hà Vô Kị cùng Đàn Chi bày thuyền hạm ở giữa dòng, đề phòng kẻ địch xổng mất. Nghị tự khoác giáp trụ, lên thành nửa ngày thì cả hai nơi đều vỡ, bắt sống Sơn Khách, còn Phùng Cai trốn thoát. Ông tiến quân dẹp Ba Lăng. Triều đình lấy Nghị làm Sứ trì tiết, Duyện Châu thứ sử, tướng quân như cũ.

Nghị ban bố hiệu lệnh nghiêm chỉnh, đi qua các nơi, trăm họ đều yên vui. Nam Dương thái thú Lỗ Tông Chi hưởng ứng ông, tập kích Tương Dương, phá Hoàn Úy. Các cánh quân của bọn Nghị đến Mã Đầu thuộc Giang Lăng. Hoàn Chấn bắt giữ Tấn An đế, ra đóng trại bến sông. Tông Chi lại phá tướng địch là Ôn Giai, Chấn tự đi đánh Tông Chi. Nghị nhân đó soái các cánh quân của bọn Vô Kị, Đạo Quy phá Phùng Cai ở Dự Chương khẩu, thuận gió mà tiến, vào được Giang Lăng. Chấn nghe tin mất thành, cùng Hoàn Khiêm chạy lên phía bắc, Đế được trở về với triều đình. Nghị bắt đồng đảng của Huyền là bọn Biện Phạm Chi, Dương Tăng Thọ, Hạ Hầu Sùng Chi, Hoàn Đạo Cung, đều chém đi. Hoàn Chấn mấy lần cùng Phù Hoành từ Vân Thành tập kích chiếm lại Giang Lăng, cùng Lưu Hoài Túc giằng co. Nghị sai bộ tướng đánh Chấn, giết đi, rồi chém được tướng của Huyền là Hoàn Trân. Ông lại nhổ được Thiên Lăng, chém thái thú của Huyền là Lưu Thúc Tổ ở Lâm Chướng. Nhưng kẻ nắm quân tự đặt hiệu có đến vài chục, Nghị đều đánh dẹp được. Hai châu đã dẹp, triều đình lấy Nghị làm Phủ quân tướng quân. Bấy giờ bọn Điêu Dự làm loạn, đóng quân ở Tương Trung, Nghị sai tướng chia ra đi dẹp, đều diệt được.

Khi xưa Nghị đang để tang ở nhà, gặp dịp khởi nghĩa, bèn khoác áo gai đen làm việc. Đến nay, việc quân tạm ổn, ông dâng biểu xin về Kinh Khẩu, cho trọn việc tang. Triều đình không cho, có chiếu lấy Nghị làm Đô đốc chư quân sự của Dự Châu, 5 quận Hoài Nam, Lịch Dương, Lư Giang, An Phong, Đường Ấp thuộc Dương Châu, Dự Châu thứ sử, Trì tiết, tướng quân, thường thị như cũ, văn vũ trong phủ của ông đều được theo về Tây phủ . Nhờ công nhiều lần khuông phò, được phong Nam Bình quận Khai quốc công, kiêm Đô đốc Tuyên Thành quân sự, cấp 1 bộ Cổ xuy. Lương Châu thứ sử Lưu Trĩ làm phản, Nghị sai tướng đánh dẹp bắt về.

Ngày trước Hoàn Huyền ở Nam Châu dựng một căn nhà Trai, vẽ hình rộng cuộn trên vách, gọi là Bàn Long trai. Tên lúc nhỏ của Nghị là Bàn Long, đến nay, vào sống ở chỗ đấy. Ít lâu sau được tiến hiệu Vệ tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư.

Đại bại Tang Lạc

Khi Hà Vô Kị bị Lư Tuần đánh bại, nghĩa quân thừa thắng mà tiến, triều đình chấn động kinh hãi. Nghị sửa soạn thuyền hạm đi dẹp, sắp lên đường lại phát bệnh, mọi người đều lo lắng. Triều đình bàn bạc muốn đưa Đế lên phía bắc tìm đại quân của Lưu Dụ, thì ông khỏi bệnh, sắp đem quân nam chinh, Dụ gởi thư cho Nghị nói rằng: "Tôi cùng yêu tặc giao chiến, hiểu sự khác thường của họ. Nay việc sửa thuyền gần xong, (tôi) sẽ đi trước đập tan bọn chúng. Ngày dẹp xong giặc, công việc ở thượng lưu xin cùng nhau gánh vác." Lại sai em họ Nghị là Lưu Phiên đến ngăn cản, ông cả giận, nói với Phiên: "Chính ta ngày xưa đã đưa hắn lên cao, mày xem ta có chỗ nào không bằng Lưu Dụ!" rồi ném thư xuống đất.

Nghị bèn phát ra 2 vạn thủy quân đến Cô Thục. Tướng nghĩa quân là Từ Đạo Phúc khuyên thủ lĩnh Lư Tuần dốc toàn quân đánh Nghị, nghĩa quân hội họp ở Ba Lăng. Đôi bên giao chiến ở Tang Lạc châu, Nghị thua trận, bỏ thuyền, đem mấy trăm người lên bờ chạy trốn, những người còn lại đều bị nghĩa quân bắt được, quân nhu đầy khoang đều bị bỏ lại. Ông trên đường chạy trốn, đói khát khổ sở, những người đi theo chỉ còn sống sót hai, ba phần mười; Tham quân Dương Thúy hết sức bảo vệ, nên mới thoát nạn. Lưu Dụ an ủi rất nhiều, miễn hết tội trạng, cho giữ nguyên chức. Nghị bèn lấy Thúy làm Tư nghị tham quân.

Muốn gì được nấy

Khi Lưu Dụ đi dẹp Lư Tuần, có chiếu cho Nghị ở lại trông coi mọi việc trong ngoài. Ông lấy cớ thua trận, xin giải nhiệm, giáng làm Hậu tướng quân. Sau đó chuyển làm Vệ tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Giang Châu đô đốc. Nghị dâng biểu lấy cớ Giang Châu bị Hoàn Huyền tàn hại rất nhiều, trăm họ lưu tán, xin dời quân phủ đến Dự Chương, vốn là châu trị của Giang Châu; chỉ trích thứ sử Dữu Duyệt tuy có phủ dụ dân chúng, nhưng không biết cách quản lý; đề xuất lập thêm quân phủ ở Tầm Dương để trấn áp người Man.

Triều đình giải chức Dữu Duyệt, cho phép ông dời đến trấn thủ Dự Chương, cho bộ tướng của ông là Triệu Khôi đưa 1000 quân đến trấn thủ Tầm Dương. Ít lâu sau Nghị được thăng làm Đô đốc chư quân sự của 4 châu Kinh, Ninh,Tần, Ung, 4 quận Hà Đông, Hà Nam, Quảng Bình thuộc Ti Châu, Nghĩa Thành thuộc Dương Châu, Vệ tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Kinh Châu thứ sử, Trì tiết, công tước như cũ. Ông dâng biểu cho rằng Kinh Châu còn không đầy 10 vạn hộ, khí giới thiếu thốn; Quảng Châu tuy bị tàn hại nhưng vẫn còn giàu mạnh. Vì thế triều đình cho Nghị gia chức Đốc Giao, Quảng 2 châu.

Nghị lại tâu xin lấy Đan Dương doãn Si Tăng Thi làm Nam Man hiệu úy Hậu quân tư mã, Mao Tu Chi làm Nam Quận thái thú, Lưu Dụ đều nhận lời, lấy Lưu Mục Chi thay làm Đan Dương doãn. Nghị dâng biểu xin đến Kinh Khẩu từ biệt mộ tổ tiên, Dụ đến gặp ông ở Nghệ Đường để cùng đi. Nghị đến Giang Lăng, thay đổi rất nhiều quan chức, mang theo quân đội Giang Châu cùng văn vũ của Dự Châu tây phủ cả thảy hơn vạn người, không chịu giao trả, lại nói có bệnh, xin lấy em họ Duyện Châu thứ sử Lưu Phiên đến làm phó cho mình.

Tại họa ập đến

Lưu Dụ kết luận Nghị đã sinh lòng khác, bèn vờ nhận lời, gọi Phiên từ Quảng Lăng vào triều rồi bắt giết ông ta, sau đó tự soái quân đi dẹp Nghị, mệnh bọn Vương Trấn Ác, Khoái Ân đưa quân đi trước đến Dự Chương khẩu, ở bến sông thiêu hủy tất cả thuyền hạm rồi tiến quân. Gần đến thành còn 5, 6 dặm, Tham quân Chu Hiển Chi của Nghị muốn ra bến sông thì gặp Trấn Ác, đài quân nói: "Lưu Duyện Châu đến!", Hiển Chi hỏi: "Lưu Duyện Châu ở đâu?", đáp: "Đằng sau!" Hiển Chi không tìm thấy Lưu Phiên, biết là không ổn, quay lại đưa hơn ngàn quân bản bộ về giúp Nghị.

Bọn Trấn Ác chiếm được thành ngoài, Nghị thủ thành trong, lực lượng tinh nhuệ còn trên mấy ngàn người, giao chiến đến quá trưa, Trấn Ác gởi thư của Lưu Dụ vào thành trong, ông giận không mở ra mà đốt đi. Nghị mong có cứu binh ở ngoài, đốc thúc sĩ tốt ra sức chiến đấu. Quân của Nghị biết Lưu Dụ cũng đến, chẳng còn lòng dạ nào. Đến chiều, Trấn Ác đốt các cửa, dốc sức tấn công, quân của Nghị tan rã, ông lên ngựa theo cửa bắc một mình bỏ chạy, ra khỏi Giang Lăng 20 dặm thì treo cổ mà chết.

Sáng hôm sau, cư dân phát hiện, báo tin cho đài quân, xác của Nghị bị chặt đầu treo ở chợ. Con cháu đều bị giết, anh Nghị là Lưu Mô chạy đến Tương Dương, bị Lỗ Tông Chi chém đầu đưa về kinh sư.

Tính cách

Khoe khoang, ngạo mạn

Nghị tính cương cường, dũng mãnh, thâm trầm, quyết đoán, lại phóng túng, ngang bướng. Ông cùng Lưu Dụ làm nên nghiệp lớn, tuy công lao ở dưới ông ta, rất hay khoe khoang, không chịu kém cạnh. Về sau ở châu, thường tấm tức không vui, Dụ đều mềm mỏng mà vỗ về. Mỗi lần xem sử sách, đến chỗ Lận Tương Như nhường nhịn Liêm Pha, liền than thở rằng không thể làm được như vậy. Thường nói: "Hận không gặp được Lưu, Hạng, cùng họ tranh giành Trung Nguyên." Lại nói với Si Tăng Thi rằng: "Xưa Lưu Bị có Khổng Minh, như cá gặp nước. nay tôi và anh tuy tài năng không bằng người xưa, nhưng việc thì có thể nói là như nhau."

Khi Lưu Dụ chinh thảo Lư Tuần, khải hoàn trở về, Đế bày tiệc ở Tây Trì, có chiếu lệnh mọi người làm thơ. Thơ của Nghị là "六國多雄士, 正始出風流" (Hán Việt: lục quốc đa hùng sĩ, chánh thủy xuất phong lưu, Tạm dịch: 6 nước nhiều hào kiệt, mới tỏ được phong lưu). Lưu Dụ chiến công hiển hách, Nghị không bì kịp. Nhưng Dụ xuất thân bình dân, học thức kém cỏi, nên Nghị luôn cố gắng tỏ ra văn nhã có thừa, kết giao thân thiết với bọn Tạ Hỗn, Si Tăng Thi đều có văn tài nổi tiếng đương thời. Về sau Hỗn bị giết đồng thời với Lưu Phiên; sau khi Nghị thất bại, Dụ vào Giang Lăng giết Tăng Thi.

Đố kỵ, hẹp hòi

Ngày nọ mọi người chơi Xư Bồ (trò đánh bạc có 5 thẻ gỗ) ở Đông phủ (trị sở của Dương Châu thứ sử, tức Lưu Dụ), tiền cược lên đến mấy trăm vạn. Không ai ném được cao hơn mức Độc (3 đen 2 trắng), chỉ còn Lưu Dụ và Lưu Nghị là chưa ném. Lưu Nghị ném ra Trĩ (4 đen 1 trắng), vô cùng cao hứng, trút áo xuống giường, nói: "Không phải là không thể ném ra Lư (5 đen 0 trắng), chỉ vì không cần làm thế!" Dụ ghét lắm, nắm thẻ gỗ hồi lâu, nói: "Anh đã thách thức thì tôi xin đáp lại!" rồi ném ra, được ngay 4 mặt đen, còn 1 thẻ vẫn đang xoay chuyển. Dụ hét lên lớn 1 tiếng, tấm thẻ này ngã ra mặt đen, là Lư. Nghị sa sầm nét mặt, hồi lâu mới nói: "Cứ nghĩ rằng anh không thể làm được!" Nghị càng ngày càng đố kỵ với Dụ, sau khi đến châu, ngoài thì không ngừng tăng cường thực lực, trong thì liên kết với bọn Tạ Hỗn, tìm cơ hội lật đổ Dụ, cho đến lúc bị tiêu diệt.

Trong những năm Long An (397 - 401), Dữu Duyệt còn làm Tư đồ trưởng sử, từng đến Kinh Khẩu. Nghị bấy giờ còn nghèo túng, cùng thân nhân bạn bè trong phủ tụ tập ở Đông Đường chơi Xuất Xạ (trò đánh bạc ném mũi tên, hòn sỏi,… vào lọ, thường kèm theo hát xướng), thì Duyệt đưa bọn liêu tá đến đuổi đi. Nghị nói rằng: "Bọn Nghị là người nghèo túng, gặp mặt vui chơi rất khó. Anh có thể ở chỗ khác, đợi đến ngày mai hãy ở đây." Duyệt không cho. Mọi người giải tán, một mình Nghị ở lại chơi Xuất Xạ. Đến bữa Duyệt ăn thịt ngỗng, Nghị xin đồ thừa, Duyệt không đáp lại, Nghị vẫn ngậm hờn. Về sau Duyệt làm Giang Châu thứ sử, Nghị làm Giang Châu đô đốc. Nghị tìm cách đuổi Duyệt khỏi trị sở Dự Chương, còn sai người nói cho ông ta biết ý định của mình, khiến Duyệt phẫn uất mà chết. Có thể thấy Nghị hẹp hòi như thế nào!

Dật sự

Bọn Vương Trấn Ác bất ngờ tấn công, ngựa của Lưu Nghị đều ở thành ngoài. Khi muốn đột vây, lại không tìm được ngựa, ông bèn đến chỗ con trai Lưu Túc Dân lấy ngựa, Túc Dân không cho. Chu Hiển Chi nói với Túc Dân: "Người ta muốn bắt cha mày, mà tiếc con ngựa không cho, mày nay muốn tự chạy, còn chạy được đến đâu?" rồi cướp ngựa mà đưa cho Nghị .

Khi xưa Hoàn Úy trốn vào chùa Ngưu Mục, được nhà sư là Xương che giấu, Nghị giết Xương. Đến nay Nghị chạy đến chùa Ngưu Mục, nhà chùa lấy cớ ấy không dám nhận, ông hết đường đành phải treo cổ tự sát.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Nghị** (, ? – 412), tự **Hi Nhạc**, tên lúc nhỏ là **Bàn Long**, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Lưu Nghị** (chữ Hán: 刘毅, 216 – 285) là quan viên nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng vì dám trực diện so sánh Tấn Vũ đế với hai hôn quân
**Lưu Tuân** (chữ Hán: 刘遵, ? – 414), tự Tuệ Minh, người Hải Tây, Lâm Hoài , tướng lãnh nhà Đông Tấn. ## Cuộc đời Ông là anh/em con dì của Lưu Đạo Liên, Lưu
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần** bùng nổ vào tháng 8 ÂL năm 416, kéo dài đến tháng 8 ÂL năm 417, quen gọi là **chiến tranh Lưu Dụ diệt Hậu Tần** (chữ Hán:
**Mạnh Sưởng** (chữ Hán: 孟昶, ? – 22 tháng 6, 410), người huyện An Khâu, quận Bình Xương, là tướng cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sưởng là hậu
**Vương Cung** (chữ Hán: 王恭, ? – 398), tên tự là **Hiếu Bá**, người Tấn Dương, Thái Nguyên, là đại thần, ngoại thích nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh của
**Vương Du** (chữ Hán: 王愉, ? – 30/3/404), tự **Mậu Hòa** (茂和), tiểu tự **Câu** (驹), người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên cuối đời Đông Tấn. ## Sự nghiệp Du là hậu duệ
**Vương Tu** (chữ Hán: 王修, ? - 418), tên tự là **Thúc Trì**, người Bá Thành, Kinh Triệu , tướng lĩnh nhà Đông Tấn. Ông là một trong 8 viên đại tướng bị bắt hoặc
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Lưu Kính Tuyên** (chữ Hán: 刘敬宣, 371 – 415) là tướng lãnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Kính Tuyên tự Vạn Thọ, nhũ danh A Thọ, người quận
**Lưu Đào** (chữ Hán: 刘陶, ? – 185?), tên khác là Lưu Vĩ, tự Tử Kỳ, hộ tịch ở huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán. Ông vì chống
**Lã Động Tân** (; 796-?) hay **Lữ Động Tân**, tên húy là **Lã Nham** (呂嵒, hay 呂巖), tự **Động Tân**, đạo hiệu **Thuần Dương Tử**, còn có hiệu là **Hồi đạo nhân**, sinh ngày 14
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Sơn Đông** () là một tỉnh ven biển phía đông Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Đông là tỉnh đông thứ hai về số dân, đứng thứ ba về kinh tế Trung Quốc với 100,4 triệu
**Lưu Mục Chi** (刘穆之), tên tự là **Đạo Hòa**, tên lúc nhỏ là Đạo Dân , là kiều dân ở Kinh Khẩu , mưu sĩ thân cận của quyền thần Lưu Dụ cuối đời Đông
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.01**) là tên gọi thông dụng nhất của một tuyến đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc của Việt Nam
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Lưu Thông** () (?-318), tên tự **Huyền Minh** (玄明), nhất danh **Tải** (載), người Hung Nô, gọi theo thụy hiệu là **Hán (Triệu) Chiêu Vũ Đế** (漢(趙)昭武帝), là hoàng đế thứ ba của nhà Hán
**Lâm Đồng** là một tỉnh nằm ở phía nam của khu vực Tây Nguyên, Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía nam giáp tỉnh Bình Thuận và Đồng Nai, phía đông giáp tỉnh
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**Lưu Phiên** (chữ Hán: 刘籓 hay 藩, ? – 412), người huyện Bái, nước Bái , tướng lãnh Bắc phủ binh cuối đời Đông Tấn. ## Cuộc đời và sự nghiệp Phiên là em họ
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
**Đảng Việt Tân** hoặc **Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng** (tiếng Anh: _Vietnam Reform Revolutionary Party_, **VRRP**) là một tổ chức chính trị được thành lập bởi một nhóm người Mỹ gốc Việt tại
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
Lâm Xuyên Liệt Võ Vương **Lưu Đạo Quy** (chữ Hán: 劉道規, 370 – 25 tháng 7, 412), tên tự là **Đạo Tắc**, người Tuy Lý, Bành Thành , tướng lãnh nhà Đông Tấn, hoàng thân
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Trương Nghi** (chữ Hán: 張儀, 373 TCN - 310 TCN), tước hiệu là **Vũ Tín Quân** (武信君), người đời tôn xưng là **Trương Tử** (張子), là một nhà du thuyết nổi tiếng thời Chiến Quốc
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
**Tuân Úc** (còn có cách phiên âm Hán Việt khác là **Tuân Húc**, chữ Hán: 荀勖, bính âm: Xún Xù, ? – 289), tên tự là **Công Tằng** (公曾), người huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh
**Đồng bằng sông Cửu Long** đã có lịch sử khai phá từ thế kỷ 17, bắt đầu dưới quyền chúa Nguyễn, các chúa đã cho tổ chức các đơn vị hành chính ban đầu trên
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần** là một chuỗi những chiến dịch quân sự vào cuối thế kỷ thứ 3 TCN nhằm thống nhất lãnh thổ Trung Hoa do nước Tần thực hiện
thế=A toy animal with wheels|nhỏ|Một món đồ chơi nhỏ hình động vật có bánh xe xuất hiện tại [[México|Mexico, thời kỳ tiền Colombo.]] Một số sinh vật có khả năng **chuyển động quay** hoặc **lăn**.
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Indonesia chiếm đóng Đông Timor** từ tháng 12 năm 1975 đến tháng 10 năm 1999. Sau thế kỷ cai trị của thực dân Bồ Đào Nha ở Đông Timor, một cuộc đảo chính năm 1974
**Lê Thị Lựu** (chữ Hán: 黎氏榴, 19 tháng 1 năm 1911 – 6 tháng 6 năm 1988) là một họa sĩ chuyên về tranh lụa và tranh sơn dầu người Việt Nam. Bà được xem