✨Lưu Thiệu (Lưu Tống)

Lưu Thiệu (Lưu Tống)

Lưu Thiệu () (426–453), tên tự Hưu Viễn (休遠), thụy hiệu là Nguyên Hung (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là thái tử của Văn Đế, song sau khi hay tin về việc phụ hoàng định phế truất mình, ông đã tiến hành chính biến và sát hại phụ hoàng rồi đoạt lấy ngôi vị, song sau đó chính ông lại bị đánh bại rồi bị giết chết dưới tay hoàng đệ là Vũ Lăng vương Lưu Tuấn, Lưu Tuấn lên ngôi trở thành Hiếu Vũ Đế.

Làm thái tử

Năm sinh chính thức của Lưu Thiệu là 426, khi đó cha của ông Lưu Nghĩa Long (Văn Đế) đã là hoàng đế. Tuy nhiên, các sử sách chính thức đã chỉ ra rằng đó không phải là năm sinh thực sự của ông, ông là con trai của cha cùng Hoàng hậu Viên Tề Quy, và khi ông sinh ra thì Lưu Nghĩa Long vẫn đang là Nghi Đô vương dưới quyền trị vì của huynh trưởng là Thiếu Đế. Theo chính sử thì lý do năm sinh của ông bị giả mạo là bởi Lưu Thiệu đã được thụ thai trong giai đoạn Lưu Nghĩa Long đang phải để tang ba năm phụ hoàng Vũ Đế, trong thời gian đó Lưu Nghĩa Long có nghĩa vụ phải kiêng quan hệ nam nữ. Do Vũ Đế qua đời năm 422, nên năm sinh thật sự của Lưu Thiệu là vào một thời điểm nào đó từ năm 423 đến 425. Lưu Thiệu là con trai cả của Văn Đế.

Các ghi chép chính thức cũng nói về một câu chuyện khác, đó là khi Lưu Thiệu chào đời, Viên Hoàng hậu đã nhìn người con mới chào đời rồi nói rằng, "tướng mạo của đứa trẻ này thật khác thường, và nó chắc chắn sẽ phá hủy quốc gia và gia đình mình; Ta sẽ không nuôi nó." Sau đó, bà muốn người con trai mới lọt lòng phải chết, song khi Văn Đế hay tin thì liền chạy đến và cứu lấy đứa trẻ. (Sử gia hiện đại Bá Dương nghi ngờ về chi tiết này và cho rằng câu chuyện được bịa đặt sau các hành động của Lưu Thiệu.)

Năm 429, Văn Đế lập Lưu Thiệu làm thái tử. Năm 438, ông lấy con gái của viên quan Ân Thuần (殷淳) đã qua đời trước đó, tên là Ân Ngọc Anh, làm thái tử phi. Khoảng tết năm 440, Thái tử Thiệu được mặc trang phục của người lớn, đồng nghĩa với việc được công nhận là đã trưởng thành. Vào thời điểm này, ông được mô tả là một thanh niên tuấn tú và hiếu học, cũng có tài bắn cung và cưỡi ngựa. Ông thích tiếp nhiều khách ở trong cung của mình, và Văn Đế cung cấp bất kỳ điều gì ông mong muốn. Khoảng thời gian này, Lưu Thiệu cũng bắt đầu duy trì một đội cận vệ lớn để bảo vệ Đông cung.

Mẹ của Lưu Thiệu, Viên Hoàng Hậu, ban đầu được Văn Đế sủng ái. Tuy nhiên, theo thời gian, bà đã để mất lợi thế vào tay Phan thục phi. Một lần, để thử lòng Văn Đế, Viên Hoàng hậu đã lệnh cho Phan thục phi thỉnh cầu Văn Đế ban cho thân thích của mình một khoản phí tổn cao gấp từ sáu đến mười lần so với khoản Văn Đế đã trao cho thân thích của Hoàng hậu trước đây, và Văn Đế đã dễ dàng chấp thuận. Từ thời điểm đó, bà trở nên bực bội với Văn Đế, rồi lâm bệnh trong khi lòng tràn ngập đố kị, song ngay cả khi bị bệnh thì bà vẫn không chịu hòa giải với Văn Đế. Năm 440, Viên Hoàng hậu qua đời, và do đó Lưu Thiệu trở nên bực bội với Phan thục phi và con trai của bà ta là Thủy Hưng vương Lưu Tuân. Lưu Tuân biết được điều này nên đã khéo léo bợ đỡ và nuôi dưỡng mối quan hệ với Lưu Thiệu, và hai anh em do đó đã trở nên cực kỳ thân thiết.

Năm 450, khi Văn Đế muốn tấn công Bắc Ngụy để thu hồi lại các châu ở phía nam Hoàng Hà bị mất trong thời trị vì của Thiếu Đế (Văn Đế từng lấy lại được vào năm 430 song đến năm 431 lại để mất), Lưu Thiệu cùng với các tướng Thẩm Khánh Chi (沈慶之) và Tiêu Tư Thoại (蕭思話), phản đối chiến dịch song Văn Đế không nghe theo. Khi Bắc Ngụy Thái Vũ Đế phản công vào cuối năm và tiến sâu vào lãnh thổ Lưu Tống, đến tận Qua Bộ (瓜部, nay thuộc Nam Kinh, Giang Tô), đối diện với kinh thành Kiến Khang qua Trường Giang. Tuy nhiên, lúc này Thái Vũ Đế đã đề xuất về việc hai hoàng tộc thiết lập hòa bình bằng những mối quan hệ hôn nhân, theo đó một con gái của Văn Đế sẽ kết hôn với một cháu nội của Thái Vũ Đế, và một con gái của Thái Vũ Đế sẽ kết hôn với một con trai của Văn Đế là Vũ Lăng vương Lưu Tuấn (có Hán tự khác với Thủy Hưng vương Lưu Tuân). Lưu Thiệu đã ủng hộ kế hoạch này do khi đó cả hai em trai của ông là Lưu Tuấn và Nam Bình vương Lưu Thước (劉鑠), cũng như thúc phụ Giang Hạ vương Lưu Nghĩa Cung (劉義恭) đều đang bị mắc kẹt trong các thành bị Bắc Ngụy bao vây; tuy nhiên một đại thần cấp cao tên là Giang Đam (江湛) đã phản đối và điều này đã khiến cho Lưu Thiệu trở nên tức giận. Sau buổi thiết triều, Lưu Thiệu lệnh cho binh lính đẩy Giang Đam ngã xuống bậc thang, gần như đã giết chết Giang. Lưu Thiệu cũng đề xuất với Văn Đế rằng nên giết chết Giang Đam và một đại thần cấp cao khác là Từ Đam Chi [徐湛之, con trai hoàng tỉ của Văn Đế là Hội Kê Trưởng công chúa Lưu Hưng Đệ (劉興弟)] vì đã ủng hộ chiến dịch. Tuy nhiên, Văn Đế đã từ chối và nói rằng việc mở chiến dịch là ý của mình và Từ cùng với Giang chỉ đơn thuần là đã không phản đối nó. Từ thời điểm này trở đi, giữa Lưu Thiệu với Giang và Từ đã phát triển một mối thù hận sâu sắc. Do vậy, Giang Đam và Từ Đam Chi tiếp tục phản đối mạnh mẽ hiệp ước hôn nhân, và nó đã không bao giờ được thực hiện.

Năm 451, Lưu Thiệu đã nhúng tay vào cái chết của một hoàng thúc, đó là Bành Thành vương Lưu Nghĩa Khang. Do Lưu Nghĩa Khang là trung tâm của nhiều âm mưu (song ông ta không trực tiếp liên quan) nhằm hạ bệ Văn Đế và đưa ông ta lên ngôi, Văn Đế đã đưa Lưu Nghĩa Khang đi lưu đày. Do quân Bắc Ngụy vẫn còn ở sâu trong lãnh thổ Lưu Tống, Văn Đế lo ngại rằng sẽ tiếp tục xảy ra các âm mưu tương tự, Lưu Thiệu cùng với Vũ Lăng vương Lưu Tuấn và Hà Thượng Chi (何尚之) cũng chủ trương giết chết Lưu Nghĩa Khang. Văn Dế do đó đã cử người đến truyền lệnh buộc Lưu Nghĩa Khang phải tự sát, song vì Lưu Nghĩa Khang từ chối nên ông ta đã bị làm cho chết ngạt.

Chính biến chống lại Văn Đế

Vào một thời điểm nào đó trước năm 452, Lưu Thiệu và Thủy Hưng vương Lưu Tuân quen biết với nữ vu Nghiêm Đạo Dục (嚴道育), khả năng ma thuật của người này được Đông Dương Hiến công chúa Lưu Anh Nga (劉英娥) hết sức tin tưởng. Do Văn Đế nghiêm khắc với con trai của mình, ông thường xuyên quở trách Lưu Thiệu và Lưu Tuân về những lỗi trong hành vi của họ. Ban đầu, Lưu Thiệu và Lưu Tuân yêu cầu Nghiêm sử dụng ma thuật để cầu xin các thần linh hãy khiến cho Văn Đế không nghe được tin về những lỗi của họ. Sau đó, Lưu Thiệu và Lưu Tuân bắt đầu yêu cầu Nghiêm hãy yểm bùa cho Văn Đế sớm chết, để Lưu Thiệu có thể sớm lên ngôi hoàng đế. Thời điểm này, trong các bức thư trao đổi giữa hai anh em, họ gọi phụ hoàng là "người đó", và gọi thúc phụ Giang Hạ vương Lưu Nghĩa Cung (tức người đang đứng đầu triều đình vào thời điểm đó) là "tên nịnh bợ."

Tuy nhiên, đến năm 452, tin tức về những trò phù thủy của Nghiêm đã bị bại lộ. Hầu gái của Lưu Anh Nga là Vương Anh Vũ (王鸚鵡), là người giúp liên lạc giữa Lưu Thiệu, Lưu Tuân và Nghiêm Đạo Dục, Vương Anh Vũ trước đó đã có quan hệ với một đầy tớ của Lưu Anh Nga tên là Trần Thiên Dữ (陳天與) và người này cũng tham gia vào trò phù thủy, tuy nhiên Vương Anh Vũ sau đó đã trở thành thê thiếp một thuộc hạ của Lưu Tuân tên là Thẩm Hoài Viễn (沈懷遠). Lo ngại rằng Thẩm Hoài Viễn sẽ phát hiện ra mối quan hệ xác thịt giữa mình và Trần Thiên Dữ trước đây, Vương Anh Vũ đã thuyết phục Lưu Thiệu giết chết Trần. Một đầy tớ khác tên là Trần Khánh Quốc (陳慶國), cũng tham gia vào trò phù thủy, hắn ta trở nên sợ hãi vì nghĩ rằng mình cũng sẽ bị giết hại nên đã báo lại sự việc cho Văn Đế. Văn Đế bắt giữ Vương Anh Vũ và tìm thấy thư tín giữa Lưu Tuân và Lưu Thiệu nói về trò phù thủy, và còn tìm thấy một hình nộm được sử dụng cho việc yểm bùa; Văn Đế sau đó cũng hạ lệnh bắt giữ Nghiêm song không thể tìm được người này. Tuy nhiên, Văn Đế đã không nhẫn tâm trừng phạt Lưu Thiệu và Lưu Tuân mà chỉ trách mắng họ.

Đến mùa xuân năm 453, Nghiêm Đạo Dục được Lưu Tuân che giấu tại Kinh Khẩu (京口, nay thuộc Trấn Giang, Giang Tô), sống trong nhà một đày tớ của Lưu Tuân tên là Trương Ngổ (張旿). Lưu Tuân sau đó trở thành thứ sử của Kinh Châu (荊州, nay là Hồ Bắc) với trị sở đặt tại Giang Lăng, và ông ta đưa Nghiêm quay trở lại kinh thành Kiến Khang. Tuy nhiên, vào lúc này, Văn Đế đã nhận được tin rằng Nghiêm đang sống trong nhà của Trương, và đã cho lục soát căn nhà nhà, và khi không tìm thấy Nghiêm (do bà ta đã trở về Kiến Khang cùng với Lưu Tuân), Văn Dế được kể lại rằng Nghiêm đang ở Kiến Khang cùng với Lưu Tuân. Văn Đế cực thịnh nộ, tin rằng Lưu Tuân và Lưu Thiệu vẫn tiếp tục liên quan đến trò ma thuật. Do đó, Văn Đế đã tính đến việc phế truất Lưu Thiệu và buộc Lưu Tuân phải tự sát. Văn Đế đã bí mật thảo luận chuyện này với Từ Đam Chi và Giang Đam cùng Vương Tăng Xước (王僧綽). Cuộc thảo luận trở nên bế tắc trước việc ai sẽ thay thế Thiệu làm thái tử, trong đó Giang Đam ủng hộ anh em đồng hao là Nam Bình vương Lưu Thước còn Từ Đam Chi thì ủng hộ con rể là Tùy vương Lưu Đản (劉誕), và bất chấp việc Vương Tăng Xước đã hối thúc nhanh chóng giải quyết vấn đề, Văn Đế vẫn do dự trong việc lựa chọn Lưu Thước hay Kiến Bình vương Lưu Hoành (劉宏). Trong khi đó, mặc dù việc thảo luận diễn ra trong bí mật, Văn Đế lại đi nói sự việc cho Phan thục nghi, và bà đã nhanh chóng báo tin cho con trai ruột là Lưu Tuấn, Lưu Tuấn sau đó báo cho Lưu Thiệu. Do đó, Lưu Thiệu đã lên kế hoạch chính biến chống lại phụ hoàng.

Ngoài một người tên là Viên Thục (袁淑), tất cả các cộng sự khác đều ủng hộ kế hoạch của Lưu Thiệu. Lưu Thiệu sau đó giả một chiếu chỉ của Văn Đế để cho quân của mình có thể tiến vào cung của vua phụ hoàng, giả vờ rằng đang chống lại một cuộc phản loạn, Lưu Thiệu đồng thời cử một thân tín tên là Trương Siêu Chi (張超之) vào phòng ngủ của Văn Đế để ám sát. Lưu Thiệu cũng ra lệnh giết chết Từ Đam Chi, Giang Đam, Phan thục phi và một số cộng sự khác của Văn Đế. Lưu Tuân nhanh chóng hội quân cùng Lưu Thiệu tại hoàng cung, và hai người này sau đó đã vu cáo rằng Văn Đế bị Từ và Giang sát hại. Lưu Thiệu lên ngôi hoàng đế.

Thời gian trị vì ngắn ngủi

Mặc dù Lưu Thiệu đã đổ tội sát hại Văn Đế cho Từ và Giang, song sự thật đã sớm bị phơi bày. Do đó, mặc dù phần lớn các bá quan chịu khuất phục do lo sợ song hầu hết họ đều không thực sự trung thành với ông. Ông đã ban cái chết một số người em họ mà mình không ưa.

Lưu Thiệu sau đó đã gửi một mật chỉ để gửi cho Thẩm Khánh Chi, lệnh cho người này phải giết chết Vũ Lăng vương Lưu Tuấn [người đang là thứ sử Giang Châu (江州, nay là Giang Tây và Phúc Kiến). Tuy nhiên, Thẩm Khánh Chi lại trình mật chỉ này cho Lưu Tuấn và chủ trương rằng Lưu Tuấn cần phải nổi dậy để chống lại Lưu Thiệu. Lưu Tuấn đã chấp thuận và ngay sau đó đã hội quân cùng với một hoàng thúc phụ là Nam Tiếu vương Lưu Nghĩa Tuyên (劉義宣, đang là thứ sử Kinh Châu), Tang Chí [臧質, đang là thứ sử Ung Châu (雍州, nay là tây bắc bộ Hồ Bắc và tây nam bộ Hà Nam)), và Tùy vương Lưu Đản (đang là thái thú quận Hội Kê [會稽, nay gần tương ứng với Thiệu Hưng, Chiết Giang)], họ còn chủ trương Lưu Tuấn lên kế vị ngai vàng. Khi hay tin về cuộc nổi loạn, Lưu Thiệu trở nên sợ hãi, và ông đã đặt Kiến Khang trong thiết quân luật, thậm chí còn cho quản thúc tại phủ với các em trai và em họ ở Kiến Khang. Trong khi đó, Lưu Thiệu lập vợ mình là Ân Thái tử phi làm hoàng hậu và phong cho con trai Lưu Vĩ Chi (劉偉之) làm thái tử.

Lưu Thiệu nghi ngờ rằng những bá quan của phụ hoàng sẽ không trung thành với ông, vì thế ông đã cố đối xử tốt với các tướng Lỗ Tú (魯秀) và Vương La Hán (王羅漢), phó thác các việc binh cho họ, trong khi sử dụng một cộng sự lâu năm là Tiêu Bân (蕭斌) làm nhà chiến lược chính và thúc bá của Hoàng hậu là Ân Xung (殷沖) làm người tuyên huấn chính. Tiêu Bân đã đề xuất về việc Lưu Thiệu đích thân dẫn hạm đội của mình đi đánh Lưu Tuấn vì Lưu Tuấn có hạm đội nhỏ hơn và không phù hợp để giao chiến trên Trường Giang, hoặc phòng thủ hẻm núi ở Lương Sơn (梁山, nay thuộc Sào Hồ, An Huy). Tuy nhiên, vì bí mật ủng hộ Lưu Tuấn, Lưu Nghĩa Cung đã để xuất Lưu Thiệu nên ở tại Kiến Khang và phòng thủ thành chống lại quân của Lưu Tuấn, sử dụng sông Tần Hoài (秦淮河, chảy qua phía nam Nam Kinh ngày nay ra Trường Giang) làm tuyến phòng thủ, một chiến lược sẽ khiến cho quân của Lưu Tuấn có thể sử dụng được sức mạnh quân sự một cách hiệu quả trên bộ. Lưu Tuấn do đó đã có thể nhanh chóng tiến về Kiến Khang. Ban đầu, một tướng của Lưu Thiệu là Chiêm Thúc Nhi (詹叔兒) đề xuất rằng ông nên nhanh chóng tiến đánh tướng Liễu Nguyên Cảnh (柳元景) của Lưu Tuấn, song Lưu Thiệu đã không làm theo mà chỉ hạ lệnh tấn công sau khi doanh trại của Lưu Nguyên Cảnh đã được củng cố vững chắc. Tuy nhiên, quân của Lưu Thiệu dưới quyền chỉ huy của Tiêu Bân, nhạc phụ của Thủy Hưng vương Lưu Tuấn là Trữ Đam Chi (褚湛之), Lỗ Tú, và Vương La Hán đã có tiến triển trước quân của Lưu Nguyên Cảnh. Tuy nhiên, Lỗ Tú sau đó đã phá hoại kế hoạch tác chiến khi thổi hiệu lệnh rút lui. Lỗ Tú và Trữ Đam Chi sau đó đã nhân cơ hội để đầu hàng. Lưu Nghĩa Cung ngay sau đó cũng chạy trốn sang quân của Lưu Tuấn, và trong cơn thịnh nộ, Lưu Thiệu đã cho giết chết 12 con trai của Lưu Nghĩa Cung. Lo sợ tình hình trước mắt, song Lưu Thiệu đã không thể nghĩ ra được điều gì khác ngoài việc cúng tế thần linh.

Năm ngày sau đó, Lưu Tuấn đã tiến đến gần Kiến Khang, và vào ngày hôm sau, Lưu Tuấn đã lên ngôi hoàng đế (tức Hiếu Vũ Đế) trong khi các trận chiến vẫn đang tiếp diễn. Ngay sau đó, Lỗ Tú (nay là tướng của Lưu Tuấn) đã vượt qua sông Tần Hoài, quân của Lưu Thiệu đã sụp đổ. Quân của Lưu Tuấn bao vây hoàng cung, và Thủy Hưng vương Lưu Tuấn đã cố thuyết phục Lưu Thiệu rằng họ có thể chạy ra Đông hải, song Lưu Thiệu đã từ chối. Ngay sau đó, hoàng cung thất thủ, và mặc dù Lưu Thiệu trốn trong một cái giếng song vẫn bị phát hiện và bắt giữ. Lưu Tuấn công khai chặt đầu Lưu Thiệu cùng với bốn người con trai của ông. Ân Hoàng hậu và các con gái của Lưu Thiệu bị buộc phải tự sát. Lưu Tuấn cũng đặt thụy hiệu cho Lưu Thiệu là Nguyên Hung (元凶), nghĩa đen là "đầu sỏ."

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
nhỏ|Tổng hợp giọng nói Trên máy tính, **tổng hợp giọng nói** là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Thiệu Tư** () là cháu gọi Lưu Tòng Hiệu bằng chú, một quân phiệt thời Ngũ Đại Thập Quốc. Lưu Tòng Hiệu kiểm soát Thanh Nguyên quân với chức vụ tiết độ sứ từ
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lưu Tùng Hiệu** (; 906-962), là một tướng lĩnh của nước Mân thời Ngũ Đại Thập Quốc. Sau khi Mân diệt vong, ban đầu ông quy phục quốc gia chinh phục Mân là Nam Đường,
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống đế Bính** (chữ Hán: 宋帝昺; 12 tháng 2, 1271 - 19 tháng 3, 1279), đôi khi gọi là **Tống Thiếu Đế** (宋少帝) là vị hoàng đế thứ 9 và là hoàng đế cuối cùng
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Lưu Nghĩa Tuyên** (chữ Hán: 刘义宣, 413 – 454), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Nghĩa Tuyên là con
**Nông Văn Lưu** là Phó giáo sư, Tiến sĩ, Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh 2, Bộ Công an (Việt
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Lưu Tông** (chữ Hán: 劉琮; 191-?) là Châu mục Kinh châu đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông kế nghiệp Lưu Biểu ở Kinh châu trong một thời gian ngắn và quy
**Lưu Tống Hậu Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là **Lưu Dục** (), tên tự **Đức Dung** (德融), pháp danh **Huệ Chấn** (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 劉謙, 950 – 1009), người huyện Đường Ấp, phủ Bác Châu, lộ Hà Bắc , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Thân thế Ông cụ là Lưu Trực, nhờ thuần hậu
**Tổng cục Tình báo Quốc phòng**, gọi tắt là **Tổng cục Tình báo** hoặc** Tổng cục II**, là cơ quan tình báo chiến lược của Đảng, Nhà nước, cơ quan tình báo chuyên ngành quân
nhỏ|phải|Lưu Yên **Lưu Yên** (chữ Hán: 劉焉; ?-194) là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào cuộc chiến quân phiệt cuối triều đại này và là người tạo cơ
**Lỗ Tông Chi** (chữ Hán: 鲁宗之, ? - ?), tự Ngạn Nhân, người huyện Mi, Phù Phong, Ung Châu , đại thần nhà Đông Tấn. ## Cuộc đời Trong những năm Thái Nguyên (376 –
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Lưu Tử Huân** () (456–466), tên tự **Hiếu Đức** (孝德), là một thân vương và người tranh chấp ngôi vua triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã nhận được lời tuyên bố
**Lưu Thiệu** có thể là: * Lưu Thiệu, quan nước Tào Ngụy vào thời Tam Quốc. * Lưu Thiệu, một hoàng đế của triều Lưu Tống vào thời Nam Bắc triều. Thể loại:Sinh năm 426
**Tổng cục An ninh** là một cơ quan cũ trực thuộc Bộ Công an Việt Nam có nhiệm vụ điều hành công tác An ninh, hiện nay không còn hoạt động. ## Lược sử *
**Lưu Khang Tổ** (chữ Hán: 刘康祖, ? - 451), nguyên quán huyện Lư, quận Bành Thành nhưng đã nhiều đời sống ở Kinh Khẩu, tướng lĩnh nhà Lưu Tống. ## Cuộc đời và sự nghiệp
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Lưu Sưởng** (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự **Hưu Đạo**, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm
Hành Dương Văn vương **Lưu Nghĩa Quý** (chữ Hán: 刘义季, 415 – 15 tháng 9, 447), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. Ông là người duy nhất
nhỏ|280x280px|Bốn chữ _Hồng ẩm sơn phòng_ do Lưu Dung viết theo lối thư pháp|thế= nhỏ|280x280px|Bốn chữ _Trình tử tứ châm_ do Lưu Dung viết treo tại một hành cung của Càn Long|thế= **Lưu Dung** (phồn
thumb|upright=1.35|Bản sao lựu đạn Thế chiến II trưng bày **Lựu đạn** là một vũ khí vỏ cứng nhỏ thường được ném bằng tay (còn gọi là **lựu đạn cầm tay**), nhưng cũng có thể chỉ
**_Ex commisso nobis_**, thường được gọi là **_Bull of Gniezno_**, là một tông sắc được ban hành vào ngày 7 tháng 7 năm 1136 bởi Giáo hoàng Innocent II. Tông sắc tách Tòa Giám mục
**Lưu huỳnh** (tên khác: **_Sulfur_** (đọc như _"Xun-phu"_), **_lưu hoàng_** hay **_diêm sinh_**) là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu **S** và số nguyên tử 16. Nó là một phi