✨Lưu Nghĩa Cung

Lưu Nghĩa Cung

Giang Hạ Văn Hiến vương Lưu Nghĩa Cung (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống.

Thiếu thời

Nghĩa Cung là con trai thứ năm của Lưu Tống Vũ đế Lưu Dụ, mẹ là Viên mỹ nhân. Nghĩa Cung từ nhỏ đã thông minh dĩnh ngộ, dung mạo đẹp đẽ, nên được cha cưng chiều hơn hẳn các anh em; ăn uống ngủ nghỉ, thường ở cạnh không rời. Dụ có tính kiệm ước, các con đều một bữa trên mâm không quá 5 chén nhỏ thức ăn, riêng đối với Nghĩa Cung thì sủng ái khác hẳn, muốn gì có nấy, bao nhiêu cũng được, không ăn thì đem cho hết những người bên cạnh. Bọn Lưu Nghĩa Chân chẳng mấy khi dám xin, dẫu xin cũng không được.

Khởi nghiệp

Năm Cảnh Bình thứ 2 (424) thời Lưu Tống Thiếu đế, Nghĩa Cung lên 12 tuổi, được làm Giám Nam Dự, Dự, Ti, Ung, Tần, Tịnh 6 châu chư quân sự, Quan quân tướng quân, Nam Dự Châu thứ sử, thay Lư Lăng vương Lưu Nghĩa Chân trấn Lịch Dương.

Cùng năm, Văn đế lên ngôi, đổi niên hiệu là Nguyên Gia, Nghĩa Cung được phong Giang Hạ vương, thực ấp 5000 hộ. Được gia Sứ trì tiết, tiến hiệu Phủ quân tướng quân, cấp một bộ Cổ xuy. Năm thứ 3 (426), được làm Giám Nam Từ, Duyện 2 châu, Dương Châu chi Tấn Lăng chư quân sự, Từ Châu thứ sử, trì tiết, tướng quân như cũ. Được tiến từ Giám lên làm Đô đốc, nhưng chưa nhiệm chức. Văn đế điều quân trấn áp Tạ Hối, Nghĩa Cung về trấn Kinh Khẩu.

Năm thứ 6 (429), được cải thụ Tán kỵ thường thị, Đô đốc Kinh, Tương, Ung, Ích, Lương, Ninh, Nam – Bắc Tần 8 châu chư quân sự, Kinh Châu thứ sử, trì tiết, tướng quân như cũ. Nghĩa Cung dù có học vấn, nhưng tính kiêu ngạo, xa xỉ; sau khi ông ra trấn, Văn đế còn gởi thư khuyên răn chi li mọi việc.

Về triều làm tể tướng

Năm thứ 9 (432), được chinh làm Đô đốc Nam Duyện, Từ, Duyện, Thanh, Ký, U 6 châu, Dự Châu chi Lương Quận chư quân sự, Chinh bắc tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Nam Duyện Châu thứ sử, trấn Quảng Lăng.

Năm thứ 16 (439), được tiến vị Tư không. Năm sau (440), Văn đế ép Đại tướng quân Bành Thành vương Lưu Nghĩa Khang rời khỏi triều đình, chinh Nghĩa Cung làm Thị trung, Đô đốc Dương, Nam Từ, Duyện 3 châu chư quân sự, Tư đồ, Lục thượng thư. lĩnh Thái tử thái phó, trì tiết như cũ, cấp 20 võ sĩ đeo Ban kiếm, đặt nghi trượng, thêm binh sĩ. Năm sau nữa (441), được giải chức Đốc Nam Duyện. Năm thứ 21 (444), được tiến làm Thái úy, lĩnh Tư đồ, còn lại như cũ.

Nghĩa Cung vốn cung kính, cẩn thận, lại rút kinh nghiệm của Lưu Nghĩa Khang, tuy làm tể tướng, nhưng chỉ coi việc văn thư, khiến Văn đế an lòng. Tướng phủ hằng năm được cấp 20,000,000 tiền, vật dụng gấp bội như thế; nhưng Nghĩa Cung tính xa xỉ, chi dùng thường không đủ, Văn đế bèn cấp thêm 10,000,000. Năm thứ 26 (449), được lĩnh Quốc tử tế tửu. Khi ấy có người hiến con ngựa 500 dặm, Văn đế ban cho Nghĩa Cung.

Sợ giặc bị giáng chức

Mùa xuân năm thứ 27 (450), quân Bắc Ngụy xâm phạm Dự Châu, Văn đế nhân đó muốn bắc phạt đánh chiếm vùng Hà, Lạc. Mùa thu, Văn đế lấy Nghĩa Cung tổng thống các tướng soái, ra trấn Bành Thành, giải chức Quốc tử tế tửu. Sau đó, quân Tống lui chạy, quân Ngụy phản kích, thẳng tiến đến Qua Bộ, Nghĩa Cung cùng Vũ Lăng vương Lưu Tuấn cố thủ Bành Thành.

Mùa xuân năm thứ 28 (451), quân Ngụy rút lui, đi qua Bành Thành, Nghĩa Cung sợ hãi không dám truy kích. Hôm ấy có dân báo: "Giặc bắt hơn vạn dân chúng Quảng Lăng, nghỉ đêm ở An vương pha, cách thành vài mươi dặm. Nay đuổi theo, có thể kịp." Chư tướng đều xin, Nghĩa Cung lại cấm không cho. Qua đêm, Văn đế khiến dịch sứ đến, sai Nghĩa Cung dốc toàn lực đuổi theo, ông mới khiến Trấn quân tư mã Đàn Hòa Chi nhắm hướng Tiêu Thành ra quân. Quân Ngụy nghe tin, bèn giết hết dân chúng, dùng khinh kỵ bỏ đi.

Ban đầu, Văn đế lo Nghĩa Cung không thể giữ Bành Thành, nên hạ sắc răn đe. Nghĩa Cung đáp rằng: "Thần chưa thể nhìn xuống Hãn Hải, vượt qua Cư Duyên , nhưng có thể tránh được nỗi sỉ nhục chạy trốn của Lưu Trọng ." Nhưng khi quân Ngụy đến, Nghĩa Cung quả nhiên sợ hãi muốn bỏ chạy, nhưng được quan tướng dưới quyền hết sức can ngăn, nên mới ở lại.

Văn đế giáng hiệu của Nghĩa Cung làm Phiếu kỵ tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, còn lại như cũ.

Trong loạn Nhị Hung

Nghĩa Cung được lấy bản quan lĩnh Nam Duyện Châu thứ sử, tăng chức Đốc Nam Duyện, Dự, Từ, Duyện, Thanh, Ký, Ti, Ung, Tần, U, Tịnh 11 châu chư quân sự, gồm cả trước là 13 châu, dời trấn Hu Dị. Nghĩa Cung tu sửa trị sở, tổ chức nhân sự phỏng theo Đông phủ.

Mùa đông năm thứ 29 (452), được về triều, Văn đế lấy thuyền ngự Thương Ưng đi đón. Gặp lúc mẹ bệnh, Nghĩa Cung được cải thụ Đại tướng quân, Đô đốc Dương, Nam Từ 2 châu chư quân sự, Nam Từ Châu thứ sử, Trì tiết, Thị trung, Lục thượng thư, Thái tử thái phó như cũ. Nghĩa Cung được về trấn Đông phủ; từ chối chức Thị trung, nên Văn đế chưa trao. Đúng lúc Thái tử Lưu Thiệu nổi loạn giết Văn đế, ngay hôm ấy triệu gấp Nghĩa Cung. Trước đó, Văn đế hạ chiếu triệu Thái tử cùng chư vương đều dùng riêng một sứ giả; đến nay Nghĩa Cung lấy cớ không đúng người, Lưu Thiệu phải lấy ngay sứ giả ấy, thì ông mới chịu đến. Nghĩa Cung giao nộp tất cả quân đội, vũ khí, được tiến vị Thái bảo, tiến làm Đốc Hội Châu chư quân sự, mặc y phục của Thị trung, rồi lĩnh Đại tông sư.

Vũ Lăng vương Lưu Tuấn khởi nghĩa, Lưu Thiệu ngờ Nghĩa Cung có chí khác, sai ông vào ở tại Thượng thư hạ tỉnh, chia các con của ông ở tại Thị trung hạ tỉnh ngoài cửa Thần Hổ. Thiệu nghe tin Lưu Tuấn đã đến gần, muốn ra đón đánh, dốc toàn lực quyết chiến. Nghĩa Cung lo thuyền của nghĩa quân nhỏ bé, giao chiến ở trung lưu Trường Giang thì khó lòng địch nổi, bèn thuyết phục Thiệu cố thủ tại Thạch Đầu, dĩ dật đãi lao để đợi Lưu Tuấn; Thiệu nghe theo.

Tiền phong của nghĩa quân đến Tân Đình, Thiệu ép Nghĩa Cung cùng ra đánh, luôn giữ ông ở bên cạnh, nên không thể thoát thân. Nghĩa Cung từ trước đã sai người sắp thuyền ở bên Đông Dã, nhân đó một mình một ngựa chạy về phía nam. Nghĩa Cung sang đến bờ nam sông Hoài thì kỵ binh đuổi theo mới đến bờ bắc; Thiệu cả giận, sai Thủy Hưng vương Lưu Tuấn đi Tây tỉnh giết 12 con trai của ông.

Khi ấy Lưu Tuấn ở Tân Lâm Phổ, Nghĩa Cung đến nơi, khuyên ông ta lên ngôi. Tuấn nghe theo, tức là Hiếu Vũ đế, thụ Nghĩa Cung làm Sứ trì tiết, Thị trung, Đô đốc Dương, Nam Từ 2 châu chư quân sự, Thái úy, Lục thượng thư lục điều sự, Nam Từ, Từ 2 châu thứ sử, cấp một bộ Cổ xuy, 20 võ sĩ đeo Ban kiếm; rồi cho làm Giả Hoàng việt. Sau khi thắng lợi, được tiến vị Thái phó, lĩnh Đại tư mã, tăng số võ sĩ đeo Ban kiếm lên 30 người; Hiếu Vũ đế lấy trang sức, ấn thụ phiên vương của mình ban cho Nghĩa Cung, tăng phong 2000 hộ. Đế lập thái tử, văn thư của Đông cung trước tiên đều qua tay của Nghĩa Cung.

Khuất mình giữ thân

Năm Hiếu Kiến đầu tiên (454), bọn Nam Quận vương Lưu Nghĩa Tuyên, Tang Chất, Lỗ Sảng nổi dậy, Nghĩa Cung được gia Hoàng việt, có đặc quyền đưa 100 võ sĩ Bạch Trực vào 6 cửa (của kinh thành). Trấn áp xong cuộc nổi dậy, Hiếu Vũ đế lấy ngựa 700 dặm của Tang Chất ban cho Nghĩa Cung, rồi tăng phong 2000 hộ.

Hiếu Vũ đế cho rằng Lưu Nghĩa Tuyên dám làm loạn, là do phiên trấn cường thịnh, nên muốn giảm bớt thế lực của vương hầu. Nghĩa Cung biết ý, dâng biểu kiến nghị triều đình bỏ chức Lục thượng thư, đế nghe theo.

Tháng 11 ÂL năm ấy, Nghĩa Cung về trấn Kinh Khẩu. Mùa xuân năm thứ 2 (455), được tiến làm Đốc Đông, Nam Duyện 2 châu. Mùa đông, được chinh làm Dương Châu thứ sử, còn lại như cũ. Được gia Thù lễ: vào triều không bước xu, vái lạy không xưng tên, đeo kiếm lên điện; cố từ Thù lễ không nhận. Rồi được giải chức Trì tiết, Đô đốc cùng Thị trung.

Khi ấy Hiếu Vũ đế sủng ái Tây Dương vương Lưu Tử Thượng, Nghĩa Cung xin giải chức Dương Châu thứ sử để tránh ông ta, nên được tiến vị Thái tể, lĩnh Tư đồ. Nghĩa Cung thường lo đế nghi ngờ, gặp lúc Hải Lăng vương Lưu Hưu Mậu nổi dậy, ông dâng biểu kiến nghị không nên để chư vương ở vùng biên, tại châu không xây dựng vương phủ, còn có nhiều biện pháp giải trừ thế lực của họ, việc này khó thi hành nên không được phê chuẩn.

Bấy giờ Hiếu Vũ đế có tính nghiêm khắc và tàn bạo, Nghĩa Cung hết sức khiêm tốn, cung kính, phụng sự trọn lễ; nhờ tài ăn nói mà xu nịnh lấy lòng, hễ gặp dịp thì lạy rạp chúc mừng, dâng lời ca tụng. Năm Đại Minh đầu tiên (457), có cỏ ba lá xuất hiện ở bờ tây Thạch Đầu, Nghĩa Cung nhiều lần dâng biểu kiến nghị làm lễ Phong thiện, đế rất đẹp lòng.

Năm thứ 3 (459), Nghĩa Cung giảm binh tá, được gia lĩnh Trung thư giám, lấy 3 doanh Sùng Nghệ, Chiêu Vũ, Vĩnh Hóa cả thảy 437 hộ cấp cho phủ; tăng lại đồng 1700 người, cả thảy 2900 người.

Năm thứ 6 (462), Nghĩa Cung chịu giải chức Tư đồ, Thái tể, nhưng vẫn được vời triệu quan thuộc như cũ; hằng năm được cấp 3000 xúc vải.

Năm thứ 7 (463) Nghĩa Cung theo đế tuần du, được kiêm Thượng thư lệnh, giải Trung thư giám.

Tháng 5 nhuận năm thứ 8 (464), Nghĩa Cung được lĩnh Thái úy. Trong tháng ấy, Hiếu Vũ đế băng, di chiếu cho Nghĩa Cung cùng bọn Liễu Nguyên Cảnh, Thẩm Khánh Chi, Nhan Sư Bá, Vương Huyền Mô làm cố mệnh đại thần. Nghĩa Cung được giải Thượng thư lệnh, gia Trung thư giám, cùng Thượng thư lệnh Liễu Nguyên Cảnh nắm hết mọi việc lớn nhỏ.

Cái chết

Tiền Phế đế nối ngôi, cho Nghĩa Cung làm Lục thượng thư sự, Giám, Thái tể, Vương như cũ. Được tăng Ban kiếm lên 40 người, lại gia Thù lễ; Nghĩa Cung lại cố từ chối Thù lễ.

Tiền Phế đế cuồng loạn vô đạo, bọn Nghĩa Cung, Nguyên Cảnh mưu tính phế trừ ông ta, nhưng bị Thẩm Khánh Chi cáo giác. Ngày Quý dậu tháng 8 ÂL năm Vĩnh Quang đầu tiên (465), Tiền Phế đế soái quân Vũ Lâm bắt Nghĩa Cung ngay tại phủ đệ của ông, ban chết, khi ấy ông được 53 tuổi. Tiền Phế đế chặt tay chân, moi ruột, móc mắt của Nghĩa Cung; đem tròng mắt ngâm mật, gọi là tròng mắt quỷ.

Hậu sự

Minh đế lên ngôi, truy sùng Nghĩa Cung làm Sứ trì tiết, Thị trung, Đô đốc trung ngoại chư quân sự, Thừa tướng, lĩnh Thái úy, Trung thư giám, Lục thượng thư sự, vương như cũ. Tang lễ của ông được cấp Cửu lưu loan lộ, 100 võ sĩ Hổ bôn, Ban kiếm, trước sau bày Vũ bảo, Cổ xuy, xe Ôn lương. Năm Thái Thủy thứ 3 (467), Minh đế lại hạ chiếu cho Nghĩa Cung được bồi tế trong miếu đình.

Hậu nhân

Con trai

Nghĩa Cung có 16 con trai, trong đó 12 người bị Nguyên Hung sát hại, 4 người bị Tiền Phế đế sát hại.

12 người đầu

Nam Phong huyện vương Lưu Lãng, tự Nguyên Minh, được kế tự Lưu Tống Thiếu đế, thực ấp 1000 hộ. Làm đến Tương Châu thứ sử, Trì tiết, Thị trung, lĩnh Xạ Thanh hiệu úy, được truy tặng Tiền tướng quân, Giang Châu thứ sử.

Lưu Duệ, tự Nguyên Tú, làm đến Thái tử xá nhân, được truy tặng Thị trung, thụy là Tuyên thế tử. Năm Đại Minh thứ 2 (458), được Hiếu Vũ đế truy phong An Long vương, lấy hoàng tử thứ 4 là Lưu Tử Tuy kế tự, thực ấp 2000 hộ, truy thụy là Tuyên vương.

Tân Ngô huyện hầu Lưu Thiều, tự Nguyên Hòa, làm đến Bộ binh hiệu úy, được truy tặng Trung thư thị lang, thụy là Liệt hầu.

Bình Đô Hoài hầu Lưu Thản, tự Nguyên Độ, được truy tặng Tán kỵ thị lang.

Giang An Mẫn hầu Lưu Nguyên Lượng, được truy tặng Tán kỵ thị lang.

Hưng Bình Điệu hầu Lưu Nguyên Túy, được truy tặng Tán kỵ thị lang.

Lưu Nguyên Nhân.

Lưu Nguyên Phương.

Lưu Nguyên Lưu.

Lưu Nguyên Thục.

Lưu Nguyên Dận.

Không rõ tên.

4 người sau

Lưu Bá Cầm, sanh năm Hiếu Kiến thứ 3 (456), tên là do Hiếu Vũ đế đặt, có ý rằng Lỗ công Bá Cầm là con của Chu công Cơ Đán. Làm đến Phụ quốc tướng quân, Tương Châu thứ sử. Được đặt thụy là Ai thế tử, rồi truy tặng Giang Hạ vương, đổi thụy là Mẫn.

Vĩnh Tu huyện hầu Lưu Trọng Dung, làm đến Ninh sóc tướng quân, Lâm Hoài, Tế Dương 2 quận thái thú, được đặt thụy là Thương hầu.

Vĩnh Dương huyện hầu Lưu Thúc Tử, thụy là Thương hầu.

Lưu Thúc Bảo, thụy là Thương hầu.

Con gái

Không rõ Nghĩa Cung có bao nhiêu con gái, một trong số đó (không rõ tên) được gả cho Tư đồ tòng sự trung lang Chu Thâm nhà Nam Tề.

Dật sự

Sân trước nhà cũ của Khổng Tử tại Lỗ Quận có 24 gốc cây bách, trải qua các đời Hán, Tấn, lớn đến 3 người ôm. Có 2 cây đã gãy, kẻ sĩ sùng kính, đều không dám xâm phạm, mà Nghĩa Cung sai người chặt lấy hết cả, khiến quan dân không ai không than tiếc.

Nghĩa Cung có tính hay thay đổi, cho đến khi mất ông đã nhiều lần chuyển sang phủ đệ mới. Nghĩa Cung thích giao thiệp, nhưng không thân thiết mãi với ai; lại không xem trọng tiền bạc, bộ hạ cầu xin, có thể nhận được một, hai trăm vạn tiền, nhưng có chút gì trái ý, lập tức đòi lại. Trong niên hiệu Đại Minh, Nghĩa Cung có bổng lộc rất lớn, nhưng chẳng đủ dùng, thường mua chịu của dân; đến khi dân đem giấy nợ đến, thì ông viết đằng sau một chữ Nguyên (原, bỏ qua).

Nghĩa Cung giỏi cưỡi ngựa, hiểu âm nhạc, quen đi chơi xa 300 đến 500 dặm, Hiếu Vũ đế buông thả cho ông làm vậy. Đông đến Ngô Quận, lên núi Hổ Khẩu; còn lên núi Ô ở huyện Vô Tích để ngắm Thái Hồ. Trong niên hiệu Đại Minh, triều đình soạn quốc sử, Hiếu Vũ đế tự làm truyện về Nghĩa Cung. Đến niên hiệu Vĩnh Quang, Nghĩa Cung dù nhiệm chức tể phụ, mà mọi việc đều do bọn cận thần Đái Pháp Hưng xử lý, thường không dự vào.

Trước tác

Nghĩa Cung soạn 5 quyển "Yếu ký", chọn lọc cố sự từ đời Tiền Hán đến niên hiệu Thái Nguyên nhà Tấn, dâng lên; Hiếu Vũ đế hạ chiếu giao cho Bí các.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lưu Nghĩa Tuyên** (chữ Hán: 刘义宣, 413 – 454), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Nghĩa Tuyên là con
Hành Dương Văn vương **Lưu Nghĩa Quý** (chữ Hán: 刘义季, 415 – 15 tháng 9, 447), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. Ông là người duy nhất
Lâm Xuyên Khang vương **Lưu Nghĩa Khánh** (chữ Hán: 刘义庆, 403 – 444), người Tuy Lý, Bành Thành, quan viên, nhà văn, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thăng tiến
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Nghĩa Chân** (chữ Hán: 刘义真, 407 - 15 tháng 7 năm 424), tức **Lư Lăng Hiếu Hiến vương** (庐陵孝献王), là tông thất nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Lưu
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Lưu Nhân Cung** (, ? - 914) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường. Ông kiểm soát Lư Long (盧龍, trị sở nay thuộc Bắc Kinh) từ năm 895 đến năm 907. Thoạt
**Lưu Nghĩa** (chữ Hán: 刘义, ? - 95 TCN), tức **Đại Cương vương** (代刚王), hay **Thanh Hà Cương vương** (清河刚王), là vương chư hầu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Nghĩa là
**Lưu Diên** (chữ Hán: 刘义, ? - 109 TCN), tức **Thành Dương Kính vương** (城陽敬王), là vương chư hầu thứ tư của nước Thành Dương thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Diên
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
**Khởi nghĩa Xích Mi** (chữ Hán: 赤眉) là lực lượng khởi nghĩa thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc chống lại sự cai trị của Vương Mãng. Xích Mi quân cùng Lục Lâm quân
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
nhỏ|phải|Tượng kết nghĩa vườn đào **Kết nghĩa vườn đào** (chữ Hán: 桃園結義 - _Đào viên kết nghĩa_; tiếng Anh: _Oath of the Peach Garden_) là một sự kiện hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử
[[Phần cứng|Phần cứng máy tính là nền tảng cho xử lý thông tin (sơ đồ khối). ]] **Lịch sử phần cứng máy tính** bao quát lịch sử của phần cứng máy tính, kiến trúc của
Trong lĩnh vực thư viện và lưu trữ, **lưu trữ số** là quá trình đảm bảo thông tin kỹ thuật số quan trọng có thể được truy cập và sử dụng trong tương lai. Quá
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
**Chủ nghĩa hoài nghi triết học** (tiếng Anh: _philosophical skepticism_) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu Sưởng** (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự **Hưu Đạo**, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm
Các thành phần chính của [[máy tính cá nhân để bàn.1: Màn hình, 2: Bo mạch chủ, 3: CPU, 4: Chân cắm ATA, 5: RAM, 6: Các thẻ cắm mở rộng chức năng cho máy,
Đền Ngọc Sơn thờ Lưu Cơ ở Ninh Bình **Lưu Cơ** (chữ Hán: 劉基, 924-979) là một trong những vị khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm
Dũa Móc Inox 305 Nghĩa, Hàng Chính Hãng.Thông tin sản phẩm.Thương hiệu: Nghĩa.Mã Dũa: Dũa Móc Inox 305.SKU (Mã Vạch): PVN2315.Sản phẩm được sản xuất theo chuẩn của hãng kềm nghĩa và kiểmtra chất lượng
**Gia Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律留哥, 1165 – 1220) hay **Lưu Cách** (琉格) , người dân tộc Khiết Đan, là thủ lĩnh nổi dậy phản kháng cuối đời Kim, nhà sáng lập nước Đông
Vỉ 06 CáiDũa Giấy Nghĩa Dg.402b, Chính Hãng.Thông tin sảnphẩm.Thương hiệu:Nghĩa.Sản phẩm đượcsản xuất theo chuẩn ISO 9001 - 2015 và kiểm tra chất lượng 100% trước khi đưara thị trường.Được ngườitiêu dùng và thợ
Vỉ 06 CáiDũa Giấy Nghĩa Dg.403b, Chính Hãng.Thông tin sảnphẩm.Thương hiệu:Nghĩa.Sản phẩm đượcsản xuất theo chuẩn ISO 9001 - 2015 và kiểm tra chất lượng 100% trước khi đưara thị trường.Được ngườitiêu dùng và thợ
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lưu Văn Tú** (, 1633 – 1658), người Diên An, Thiểm Tây, tướng lãnh khởi nghĩa nông dân Đại Tây, con nuôi của thủ lĩnh Trương Hiến Trung. ## Cuộc đời và sự nghiệp Ông
**Lưu Độ** (; ? – ?), không rõ tên tự, là quan viên nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Cuối thời Đông Hán, Lưu Độ cát cứ ở Linh Lăng, rồi quy hàng
**Lưu huỳnh** (tên khác: **_Sulfur_** (đọc như _"Xun-phu"_), **_lưu hoàng_** hay **_diêm sinh_**) là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu **S** và số nguyên tử 16. Nó là một phi
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Lưu Thiện** (Trung văn giản thể: 刘禅, phồn thể: 劉禪, bính âm: Liú Shàn), 207 - 271), thụy hiệu là **Hán Hoài đế** (懷帝), hay **An Lạc Tư công** (安樂思公), hoặc **(Thục) Hán Hậu chủ**
**Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa** () là danh hiệu nhà nước Liên Xô, đồng thời là danh hiệu cao nhất cho lĩnh vực lao động từ năm 1938 đến năm 1991. ##
Dũa móc inox Kềm Nghĩa dũa móng tay tiện dụngChất liệu: Thép không gỉ, an toàn cho người dùng.Thiết kế: Thiết kế phù hợp với bàn tay người Châu Á.Sản phẩm được sản xuất theo
**Lưu Khôi** (), thường được dịch là **Lưu Hội**, không rõ tên tự, là tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Ích Châu cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không
**_Phong thần diễn nghĩa_** (), cũng gọi là **_Phong thần bảng_** (封神榜), là một tiểu thuyết trường thiên thời Minh và là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của thể loại thần ma.
Đặc điểm nổi bật Chất liệu Thép không gỉ, an toàn cho người dùng.Thiết kế Thiết kế phù hợp với bàn tay người Châu Á.Sản phẩm được sản xuất theo chuẩn ISO 9001 - 2015