✨Lưu Nghĩa Khang

Lưu Nghĩa Khang

Lưu Nghĩa Khang (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là Xa Tử, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc.

Thiếu thời

Nghĩa Khang là con trai thứ tư của Lưu Tống Vũ đế Lưu Dụ, mẹ là Vương tu dung.

Năm 12 tuổi, Nghĩa Khang được trừ chức Đốc Dự, Ti, Ung, Tịnh 4 châu chư quân sự, Quan quân tướng quân, Dự Châu thứ sử nhà Đông Tấn. Khi ấy Lưu Dụ từ Thọ Dương vào triều, sắp soán ngôi của họ Tư Mã (420), lấy Nghĩa Khang thay mình trấn thủ Thọ Dương. Sau đó được lãnh Ti Châu thứ sử, tiến làm Đốc Từ Châu chi Chung Li, Kinh Châu chi Nghĩa Dương chư quân sự.

Sau đó ít lâu Lưu Dụ giành ngôi nhà Tấn, phong ông làm Bành Thành vương, thực ấp 3000 hộ, tiến hiệu Hữu tướng quân. Năm 421, ông được dời làm Giám Nam Dự, Dự, Ti, Ung, Tịnh 5 châu chư quân sự, Nam Dự Châu thứ sử, tướng quân như cũ. Năm 422, ông được thăng Sứ trì tiết, đô đốc Nam Từ, Duyện 2 châu, Dương Châu chi Tấn Lăng chư quân sự, Nam Từ Châu thứ sử, tướng quân như cũ.

Khởi nghiệp

Văn đế lên ngôi (424), Nghĩa Khang được tăng ấp 2000 hộ, tiến hiệu Phiếu kỵ tướng quân, gia Tán kỵ thường thị, cấp 1 bộ Cổ xuy. Lại được gia Khai phủ nghi đồng tam tư.

Năm 426, ông được cải thụ Đô đốc Kinh, Tương, Ung, Lương, Ích, Ninh, Nam – Bắc Tần 8 châu chư quân sự, Kinh Châu thứ sử, cấp 30 vũ sĩ đeo Ban kiếm , Trì tiết, thường thị, tướng quân như cũ. Nghĩa Khang từ nhỏ xét đoán sáng suốt, đến nay nhiệm chức ở địa phương, có thể chỉnh đốn nghiệp vụ.

Vào triều phụ chính

Năm 429, tư đồ Vương Hoằng dâng biểu xin cho Nghĩa Khang vào triều nắm chánh sự, nên được chinh làm Thị trung, Đô đốc Dương, Nam Từ, Duyện 3 châu chư quân sự, Tư đồ, Lục thượng thư sự, lĩnh Bình bắc tướng quân, Nam Từ Châu thứ sử, Trì tiết như cũ. Hoằng và Nghĩa Khang đều được cắt đặt phụ tá và nắm binh quyền, nhưng Hoằng nhiều bệnh, hầu như không tham gia triều chánh, mọi việc trong ngoài đều do Nghĩa Khang quyết đoán. Thái tử chiêm sự Lưu Trạm có tài trị quốc, Nghĩa Khang khi xưa ở Dự Châu, lấy ông ta làm Trưởng sử, rất tin cậy ông ta, ủy nhiệm trọng trách; Trạm đối với mọi người, mọi việc đều dò xét mà nắm rõ, giúp Nghĩa Khang mấy lần đổi nhiệm sở luôn được tiếng là giỏi cai trị, xa gần ca ngợi.

Năm 432, Vương Hoằng mất, Nghĩa Khang lại được lĩnh Dương Châu thứ sử. Năm ấy, vì mẹ mất nên chịu giải chức Thị trung, không nhận Ban kiếm. Năm 435, ông lại được lĩnh Thái tử thái phó, nhận lại chức Thị trung, Ban kiếm.

Quyền nghiêng triều đình

Nghĩa Khang tính ưa việc văn thư, tra xét tư liệu, làm rõ đúng sai, không chỗ nào không tường tận. Đến nay Nghĩa Khang nắm quyền trong triều, tự mình quyết đoán, ngay cả việc lớn can hệ nhân mạng, cũng căn cứ vào bằng chứng mà phán định. Những gì triều thần trình tấu, Văn đế xét thấy không đặc biệt nghiêm trọng, hoặc liên quan đến thứ sử trở xuống, thì giao cho Nghĩa Khang thi hành; vì vậy quyền thế của ông trở nên khuynh đảo triều đình.

Nghĩa Khang không ngừng khuếch trương thế lực, chẳng có khi nào tỏ ra mệt mỏi lười nhác. Cửa phủ mỗi sớm thường có vài trăm cỗ xe, dẫu là người có địa vị thấp kém cho vào gặp. Nghĩa Khang lại có trí nhớ hơn người, văn thư đã đọc hay chỉ nhìn qua một lần thì trọn đời không quên; thường tụ họp mọi người, thử thách trí nhớ của mình, rất được khâm phục. Nghĩa Khang không đem chức tước cho người lạ; nếu gặp nhân tài, ông đều đưa vào phủ, nếu họ không tỏ ra chống đối, lập tức cho vào triều làm quan; vì thế quan viên đều vui vẻ dốc sức làm việc cho ông, không dám xem thường.

Văn đế có chứng hư lao, nằm bệnh nhiều năm, mỗi khi có ý muốn làm gì, thì trong tim đau đớn, tưởng sắp chết đến nơi. Nghĩa Khang hết lòng hầu hạ, các thứ thuốc thang ăn uống, không nếm qua thì không dâng lên; nhiều đêm không ngủ, đến lúc trời sáng còn chưa cởi áo; đồng thời mọi việc trong cung ngoài triều, đều do ông chuyên quyền quyết đoán.

Năm 439, ông được tiến vị Đại tướng quân, lĩnh Tư đồ, cho phép vời triệu duyện thuộc.

Vua tôi hiềm khích

Nghĩa Khang vốn không có học vấn, nên chẳng nắm được đạo lý; tự cho rằng mình với hoàng đế là anh em chí thân, không cần giữ khoảng cách như vua tôi thông thường, vì vậy cứ thực lòng hành xử, không kiêng dè những việc sẽ khiến nhà vua nghi ngờ. Nghĩa Khang dưới quyền có hơn 6000 thủ hạ, nhưng không thông báo lên triều đình. Địa phương dâng lễ vật, đều đem thượng phẩm cho Nghĩa Khang, thứ phẩm cho hoàng cung. Văn đế từng ăn cam vào mùa đông, than rằng cam xấu, Nghĩa Khang đang ngồi đấy, nói: “Năm nay cam rất tốt mà!” Rồi sai người về Đông phủ lấy cam, dâng lên những trái đều lớn hơn đồ ngự 3 tấc.

Thượng thư bộc xạ Ân Cảnh Nhân được Văn đế sủng ái, vốn cùng Lưu Trạm thân thiết, về sau lại bất hòa. Trạm thường cậy quyền tể tướng của Nghĩa Khang hòng hãm hại Cảnh Nhân, nhưng Cảnh Nhân được Văn đế che chở, Nghĩa Khang cũng không nghe theo, khiến Trạm thất vọng. Người Nam Dương là Lưu Bân có họ hàng xa với Trạm, giỏi xử lý dân sự, được Nghĩa Khang biết tài, cất nhắc từ Tư đồ hữu trưởng sử lên làm Tả trưởng sử. Người Lang Da là Tòng sự trung lang Vương Lý, người Bái Quận là Chủ bộ Lưu Kính Văn, người Lỗ Quận là Tế tửu Khổng Dận Tú, đều nhờ Nghĩa Khang mà được vào triều, thấy Văn đế bệnh nặng, đều cho rằng nên lập vua trưởng thành. Văn đế từng gặp lúc bệnh trở nặng, sai Nghĩa Khang chuẩn bị chiếu Cố mệnh. Nghĩa Khang quay lại triều đường, rơi nước mắt thông báo cho Lưu Trạm với Ân Cảnh Nhân, Trạm nói: “Thiên hạ lắm việc, há ấu chủ có thể đảm đương.” Nghĩa Khang, Cảnh Nhân đều không đáp, còn bọn Khổng Dận Tú liền dâng thư lên kiến nghị làm theo lối triều thần nhà Tấn phù lập Tấn Khang đế (thay anh trai là Tấn Thành đế); Nghĩa Khang không biết việc này, nhưng Văn đế sau đó khỏi bệnh, lại có nghe qua.

Bọn Lưu Bân cậy được Nghĩa Khang sủng tín, dựa vào uy quyền của tể tướng mà khống chế triều đình, hòng tìm cách giành đế vị cho ông. Họ kết làm phe đảng, dò xét trong cung ngoài triều, đối với những người không cùng chí hướng, thì vu cáo tội trạng để bãi truất; lại góp nhặt mọi động thái của Ân Cảnh Nhân, thêm thắt vào rồi tố cáo với Lưu Trạm. Tất cả những việc này khiến cho mối quan hệ của Văn đế - Nghĩa Khang dần rạn vỡ.

Nghĩa Khang muốn lấy Lưu Bân làm Đan Dương doãn, tìm dịp kể với Văn đế gia cảnh nghèo nàn của Bân, Văn đế biết ý, chặn lời ông rằng: “Lấy hắn nắm Ngô Quận.” Về sau Cối Kê thái thú Dương Huyền Bảo xin về triều, Nghĩa Khang lại muốn lấy Bân thay thế, nên hỏi Văn đế: “Dương Huyền Bảo muốn về, không rõ nên lấy ai nắm Cối Kê?” Văn đế chưa nghĩ ra, thảng thốt nói: “Ta muốn dùng Vương Hồng.”

Từ mùa thu năm 439, Văn đế không ghé Đông phủ nữa.

Rời khỏi triều đình

Văn đế cho rằng đôi bên đã sinh hiềm khích, sợ gây vạ lớn, nên quyết định ra tay trước. Tháng 10 ÂL năm 440, Văn đế bắt Lưu Trạm giao cho Đình úy, định tội chết, lại khép tội chết bọn Lưu Bân cùng Đại tướng quân Lục sự tham quân Lưu Kính Văn, Tặc tào tham quân Khổng Thiệu Tú, Trung binh tham quân Hình Hoài Minh, Chủ bộ Khổng Dận Tú, Đan Dương thừa Khổng Văn Tú, Tư không tòng sự trung lang Tư Mã Lượng, Ô Trình lệnh Thịnh Đàm Thái. Đày Thượng thư khố bộ lang Hà Mặc Tử, Dư Diêu lệnh Hàn Cảnh Chi, Vĩnh Hưng lệnh Nhan Diêu Chi, em Trạm là Hoàng môn thị lang Lưu Tố, em Bân là Cấp sự trung Lưu Ôn đi Quảng Châu; phế quan Vương Lý, cho về nhà. Dận Tú ban đầu làm Thư ký mà được tín nhiệm, dần tham gia cơ mật; Văn Tú, Thiệu Tú đều là anh trai của ông ta. Tư Mã Lượng là cháu bên ngoại của họ Khổng, cũng do Dận Tú tiến cử. Hoài Minh, Đàm Thái do Nghĩa Khang cất nhắc, Mặc Tử, Cảnh Chi, Diêu Chi được Lưu Trạm tiến cử.

Hôm sau Nghĩa Khang vào hầu, bị giữ lại ở Trung thư tỉnh, đêm ấy bọn Lưu Trạm bị bắt giữ. Thanh Châu thứ sử Đỗ Ký đưa quân giữ trong điện để phòng bị biến cố. Văn đế tuyên chỉ thông cáo tội trạng của bọn Trạm, Nghĩa Khang dâng biểu từ chức, được đổi thụ Đô đốc Giang Châu chư quân sự, Giang Châu thứ sử, Trì tiết, Thị trung, tướng quân như cũ, ra trấn Dự Chương.

Nghĩa Khang ở tỉnh hơn 10 ngày, Quế Dương hầu Lưu Nghĩa Dung, Tân Dụ hầu Lưu Nghĩa Tông, Bí thư giám Từ Trạm Chi đến úy dụ. Nghĩa Khang từ biệt Văn đế rồi xuống thuyền, hai người nhìn nhau mà khóc, không nói lời nào. Đế sai sa môn Thích Tuệ Lâm đưa tiễn, Nghĩa Khang hỏi mình còn có thể trở lại triều đình hay không, Tuệ Lâm đáp: “Tiếc rằng ngài không đọc vài trăm quyển sách.”

Chinh lỗ tư mã Tiêu Bân, khi xưa được gần gũi Nghĩa Khang, bị bọn Lưu Bân ganh tỵ, gièm pha đuổi ra ngoài; Văn đế bèn lấy Bân làm Tư nghị tham quân, lĩnh Dự Chương thái thú, việc không kể lớn nhỏ, đều ủy cho ông ta. Tư đồ chủ bộ Tạ Tống, vốn bị Nghĩa Khang xem thường, Văn đế lấy Tống làm Ký thất tham quân. Những thủ hạ mà Nghĩa Khang yêu mến, đều được làm tùy tùng theo ông đến Dự Chương. Nghĩa Khang từ chức Giang Châu, Văn đế đồng ý, tăng làm Đốc Quảng, Giao 2 châu, Tương Châu chi Thủy Hưng chư quân sự. Nghĩa Khang được chu cấp rất hậu, tin tức liền lạc; triều đình có việc lớn, đều thông báo cho ông.

Vua ngờ tôi chết

Người quận Ba Đông là Long tương tham quân Phù Lệnh Dục dâng biểu biện hộ cho Nghĩa Khang, Văn đế lập tức bắt ông ta vào ngục ở Kiến Khang, ban chết.

Cối Kê trưởng công chúa Lưu Hưng Đệ là con lớn nhất của Vũ đế, rất được Văn đế kính yêu. Sau khi Nghĩa Khang đi về nam đã lâu, đế cùng công chúa ăn tiệc rất vui, công chúa đột ngột quỳ lạy dập đầu, nước mắt ràn rụa. Đế không hiểu vì sao, tự tay đỡ dậy, công chúa nói: “Xa Tử già rồi, ắt không thể gặp lại bệ hạ, nay đặc biệt xin giữ lại sanh mệnh của nó.” Đế cũng rơi nước mắt, trỏ Tương Sơn mà nói: “Xin chị đừng lo. Nay thề có Sơ Ninh Lăng làm chứng.” (lăng mộ của Vũ đế) Đế lập tức niêm phong chỗ rượu còn lại trong tiệc, gởi cho Nghĩa Khang, kèm thư rằng: “Chị Cối Kê ăn tiệc nhớ em, nay niêm phong chỗ rượu còn lại gởi cho.”

Năm 445, Từ Trạm Chi (con của Cối Kê trưởng công chúa) cáo giác bọn Phạm Diệp, Khổng Hy Tiên mưu phản hòng phù lập Nghĩa Khang, Văn đế tha tội chết, miễn ông cùng các con trai/gái làm thứ nhân, đày đi quận An Thành; lấy Ninh sóc tướng quân Thẩm Thiệu làm An Thành công tướng lĩnh binh phòng thủ. Nghĩa Khang ở An Thành đọc cố sự của Hoài Nam lệ vương Lưu Trường nhà Hán, bỏ sách than rằng: “Đời trước đã có việc thế này, ta đắc tội là phải.”

Năm 447, người Dự Chương là Hồ Đản Thế, Ngô Bình lệnh (tiền nhiệm) Viên Uẩn khởi nghĩa, giết Dự Chương thái thú Hoàn Long, Nam Xương lệnh Gia Cát Trí Chi, tập hợp nghĩa quân chiếm quận, muốn ủng lập Nghĩa Khang. Thái úy Lục thượng thư Giang Hạ vương Lưu Nghĩa Cung cầm đầu triều thần, tâu rằng Nghĩa Khang có lời oán giận, khiến lòng người nhiễu động, kiến nghị đày ông đi Quảng Châu. Văn đế đồng ý, muốn lấy Thẩm Thiệu tiếp tục canh giữ Nghĩa Khang ở Quảng Châu, nhưng Thiệu lại bệnh mất, nên ông vẫn ở lại quận An Thành.

Quân Bắc Ngụy xâm phạm Qua Bộ, triều đình Lưu Tống kinh động, Văn đế lo rằng lại có người mượn danh nghĩa của Nghĩa Khang nổi dậy, Vũ Lăng vương Lưu Tuấn khi ấy trấn thủ Bành Thành, nhiều lần khuyên cha ra tay; Thái tử Lưu Thiệu cùng Thượng thư tả bộc xạ Hà Thượng Chi cũng nói như vậy. Tháng giêng ÂL năm 451, Văn đế sai Trung thư xá nhân Nghiêm Long đem thuốc ban chết. Nghĩa Khang lấy cớ thờ Phật, không thể tự sát, nên chịu trùm đầu mà chết ngạt, hưởng thọ 43 tuổi, được an táng theo nghi lễ dành cho hầu tước.

Dị sự

Khi Nghĩa Khang sắp mất chức tể tướng, nước sông đột ngột dâng cao tràn đến sảnh trước của Đông phủ, chim cò bay cả vào trong phòng ốc.

Hậu sự

Nghĩa Khang có sáu con trai: Doãn, Quăng, Tuần, Chiêu, Phương, Đàm Biện. Doãn ban đầu được phong Tuyền Lăng huyện hầu, thực ấp 700 hộ; Chiêu, Phương mất sớm. Sau khi cha mất, bọn Doãn vẫn ở lại An Thành, về sau bị Nguyên Hung Lưu Thiệu sát hại.

Nghĩa Khang không rõ có bao nhiêu con gái, có bốn người từng được phong Huyện chúa ở Thủy Ninh, Phong Thành, Ích Dương, Hưng Bình. Năm Đại Minh thứ 4 (460) thời Hiếu Vũ đế, con gái Nghĩa Khang là bọn Lưu Ngọc Tú thỉnh cầu được chôn cất Nghĩa Khang trong phần mộ dành cho hoàng tộc, được chấp thuận và cấp thêm tiền của. Trong niên hiệu Vĩnh Quang (465) thời Tiền Phế đế, Lưu Nghĩa Cung thỉnh cầu cho Nghĩa Khang được khôi phục tông tịch, đế chấp thuận, nhưng chưa đồng ý khôi phục cho bọn Doãn. Năm Thái Thủy thứ 4 (468) thời Minh đế, lại bị tước bỏ tông tịch, trở về làm thứ nhân.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
Hành Dương Văn vương **Lưu Nghĩa Quý** (chữ Hán: 刘义季, 415 – 15 tháng 9, 447), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. Ông là người duy nhất
**Lưu Nghĩa Tuyên** (chữ Hán: 刘义宣, 413 – 454), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Nghĩa Tuyên là con
Lâm Xuyên Khang vương **Lưu Nghĩa Khánh** (chữ Hán: 刘义庆, 403 – 444), người Tuy Lý, Bành Thành, quan viên, nhà văn, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thăng tiến
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lưu Nghĩa Chân** (chữ Hán: 刘义真, 407 - 15 tháng 7 năm 424), tức **Lư Lăng Hiếu Hiến vương** (庐陵孝献王), là tông thất nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Lưu
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Khởi nghĩa Thanh Sơn** là một trong số các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp ở vùng hạ lưu sông Đà thuộc Bắc Kỳ (Việt Nam). Công cuộc này khởi phát năm 1890 đến năm 1892
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
**Chủ nghĩa hoài nghi triết học** (tiếng Anh: _philosophical skepticism_) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức
Các căn hộ tầng mái dành cho Tầng lớp trung lưu và Thượng lưu tại Waikiki, Honolulu, giá khởi điểm $300.000. Thông thường, thuật ngữ **tầng lớp trung lưu** hay **giới trung lưu** thường được
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Gia Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律留哥, 1165 – 1220) hay **Lưu Cách** (琉格) , người dân tộc Khiết Đan, là thủ lĩnh nổi dậy phản kháng cuối đời Kim, nhà sáng lập nước Đông
**Lưu Khang Tổ** (chữ Hán: 刘康祖, ? - 451), nguyên quán huyện Lư, quận Bành Thành nhưng đã nhiều đời sống ở Kinh Khẩu, tướng lĩnh nhà Lưu Tống. ## Cuộc đời và sự nghiệp
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Lưu Thiện** (Trung văn giản thể: 刘禅, phồn thể: 劉禪, bính âm: Liú Shàn), 207 - 271), thụy hiệu là **Hán Hoài đế** (懷帝), hay **An Lạc Tư công** (安樂思公), hoặc **(Thục) Hán Hậu chủ**
**Khởi nghĩa Lư Tuần** (chữ Hán: 卢循起义, Hán Việt: Lư Tuần khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nông dân do Lư Tuần lãnh đạo nhằm chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung
**Chủ nghĩa phúc âm** (tiếng Anh: _evangelicalism_), cũng gọi là **phái phúc âm** hay **phong trào Tin Lành phúc âm**, là thuật từ thường được dùng để chỉ một trào lưu liên hệ phái thuộc
**Trần Lựu** (chữ Hán: 陳榴; ?-?), còn được chép là **Lê Lựu** (黎榴), là một khai quốc công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong số các tướng lĩnh
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
thumb|right|Thuận chiều kim đồng hồ từ góc trên bên trái: [[Søren Kierkegaard, Fyodor Dostoevsky, Jean-Paul Sartre, Friedrich Nietzsche.]] **Chủ nghĩa hiện sinh** hay **thuyết hiện sinh** là luồng tư tưởng triết học của một nhóm
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Phạm Diệp** (398—445), tự **Úy Tông**, là nhà chính trị, nhà sử học, nhà văn người Trung Quốc thời Lưu Tống Nam Triều, tác giả bộ chính sử _Hậu Hán thư_, tổ tiên xuất thân
**Khởi nghĩa Tôn Ân** (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân,
**Hội Kê Trưởng Công chúa** (chữ Hán: 會稽長公主; ? - 444), thụy hiệu là **Hội Kê Tuyên Trưởng Công chúa** (會稽宣長公主) là công chúa triều Lưu Tống, con gái cả của Lưu Tống Vũ Đế
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
**Tiền Lưu** (chữ Hán: 錢鏐; 10 tháng 3 năm 852-6 tháng 5 năm 932, tên tự là **Cụ Mỹ** (具美), tiểu tự là **Bà Lưu** (婆留), gọi theo thụy hiệu là **Ngô Việt Vũ Túc
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
**Chủ nghĩa cộng sản vô trị**, **chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ** () hay **chủ nghĩa cộng sản tự do** là một học thuyết của chủ nghĩa vô trị, chủ trương thủ tiêu nhà
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
**Khang Vương** (chữ Hán: 康王) là thụy hiệu và tước hiệu hay tôn hiệu của một số vị quân chủ và phiên vương ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Thụy hiệu #