✨Lưu Miễn (Lưu Tống)

Lưu Miễn (Lưu Tống)

Lưu Miễn (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay Lưu Mẫn, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống.

Thân thế

Miễn là hậu duệ của học giả Kinh học Lưu Hâm thuộc dòng dõi tông thất nhà Hán, nhiều đời định cư ở làng (lý) An Thượng, Bành Thành.

Ông nội là Lưu Hoài Nghĩa, làm đến Thủy Hưng thái thú. Cha là Lưu Dĩnh Chi, làm đến Nhữ Nam, Tân Thái 2 quận thái thú, tham gia đánh Lâm Ấp, bệnh mất.

Thời Văn đế

Miễn từ nhỏ có khí tiết, ưa chuộng văn nghĩa. Vì nhà nghèo, Miễn phải nhận quan Tăng Thành (huyện) lệnh ở Quảng Châu, được Quảng Châu thứ sử Lưu Đạo Tích dẫn làm Dương Liệt phủ Chủ bộ. Năm Nguyên Gia thứ 27 (450), quân Bắc Ngụy nam xâm, Đạo Tích sai Miễn đi sứ đến kinh đô; ông được đưa vào gặp Lưu Tống Văn đế, đối đáp vừa ý hoàng đế, nên được trừ quan Ninh viễn tướng quân, Tuy Viễn thái thú. Cuối niên hiệu Nguyên Gia, Tiêu Giản chiếm cứ Quảng Châu làm loạn, Miễn khởi nghĩa đánh dẹp, đốt cửa nam của thành. Dẹp loạn xong, Quảng Châu thứ sử Tông Khác lại mệnh cho Miễn làm Quân phủ Chủ bộ; ông nhờ công được phong Đại Đình hầu, sau đó trừ quan Viên ngoại Tán kỵ thị lang.

Thời Hiếu Vũ đế

Đầu niên hiệu Hiếu Kiến (454 – 456) thời Lưu Tống Hiếu Vũ đế, Lưu Nghĩa Tuyên, Tang Chất nổi loạn, Tông Khác lấy Miễn làm Hành Ninh sóc tướng quân, Tương Đông nội sử, lĩnh quân ra An Lục. dẹp loạn xong, Miễn được giữ bản hiệu, làm Tấn Khang thái thú, rồi dời làm Úc Lâm thái thú.

Đầu niên hiệu Đại Minh (457 – 464), Miễn về kinh đô, được Từ Châu thứ sử Lưu Đạo Long mời làm Ninh sóc tư mã. Cánh Lăng vương Lưu Đản chiếm cứ Quảng Lăng nổi loạn, Miễn theo Lưu Đạo Long tham gia đánh dẹp; việc xong, được phong Kim Thành huyện Ngũ đẳng hầu. Sau đó Miễn được trừ quan Tây Dương vương Lưu Tử Thượng – Phủ quân Tham quân, vào cung làm Trực các.

Trước đó, triều đình sai Chu Đề thái thú Phí Thẩm đánh dẹp cừ soái ở quận Hợp Phố là Trần Đàn, không dẹp được, bèn cho Miễn trừ quan Long tương tướng quân, Tây Giang đốc hộ, Úc Lâm thái thú. Miễn đến nơi, soái quân đánh dẹp, tùy nghi trấn áp, tập hợp ngựa tốt, hiến cùng với San hô liên lý thụ (liền cành không cùng gốc), khiến hoàng đế rất đẹp lòng. Miễn trở về được trừ quan Tân An vương Lưu Tử Loan – Phủ quân trung binh tham quân, gặp lúc mẹ mất nên không nhận quan.

Thời Tiền Phế đế

Lưu Tống Tiền Phế đế nối ngôi, Miễn được khởi làm Chấn uy tướng quân, Đồn kỵ hiệu úy, vào cung làm Trực các.

Thời Minh đế

Trấn áp Lưu Tử Huân

Lưu Tống Minh đế nối ngôi, Miễn được gia quan Ninh sóc tướng quân, hiệu úy như cũ. Giang Châu thứ sử, Tấn An vương Lưu Tử Huân xưng đế, được nhiều nơi hưởng ứng, Miễn được giữ bản quan, lĩnh quan Kiến Bình vương Lưu Cảnh Tố – Phụ quốc Tư mã, tiến chiếm Lương Sơn. Gặp lúc Dự Châu thứ sử Ân Diễm hưởng ứng Lưu Tử Huân, Miễn được trưng về kinh đô, làm Giả Phụ quốc tướng quân, soái quân đánh Diễm, được phép đem 30 người trang bị giáp trượng vào 6 cửa của kinh đô; tiếp đó được kiêm Sơn Dương vương Lưu Hưu Hữu – Phiếu kỵ tư mã, còn lại như cũ. Bấy giờ Ân Diễm không có bộ khúc, đều là do bọn Đỗ Thúc Bảo cưỡng ép; binh lực của Miễn yếu kém, nhưng nội bộ của quân Giang Châu sớm chia rẽ, khiến đài quân liên tiếp đắc thắng; Miễn được trừ chức Phụ quốc tướng quân, Sơn Dương vương Lưu Hưu Hữu – Phiếu kỵ Tư nghị tham quân, Lương Quận thái thú, Giả tiết, ông không nhận. Đài quân tiến vây Thọ Dương, vừa đánh thành vừa đẩy lùi viện quân; Miễn giỏi phủ dụ tướng soái, luôn khoan hậu đối với mọi người; tướng quân Vương Quảng Chi hỏi xin con ngựa của Miễn, chư tướng đều tức giận, đòi trị tội ông ta; Miễn cười vui vẻ, tức thì tặng ngựa cho Quảng Chi. Miễn tiếp tục được trừ chức Sứ trì tiết, Đốc Quảng, Giao 2 châu chư quân sự, Bình Việt trung lang tướng, Quảng Châu thứ sử, tướng quân như cũ, ông lại không nhận. Đến khi Ân Diễm mở cửa xin hàng, Miễn ước thúc ba quân, không cho phép làm càn, khiến quan dân trong thành không bị tổn thất dù chỉ 1 sợi lông; trăm họ vui mừng, đều nói là sống lại rồi, lập bia thờ sống ông. Miễn được đổi làm Đốc Ích, Ninh 2 châu chư quân sự, Ích Châu thứ sử, trì tiết, tướng quân như cũ; ông lại không nhận. Miễn trở về kinh đô, được bái làm Thái tử Tả vệ soái, phong Bà Dương huyện hầu, thực ấp 1000 hộ.

Kháng cự Bắc Ngụy

Khi trước Ân Diễm cầu cứu Bắc Ngụy, đồng minh cũ của Ân Diễm là Thường Trân Kỳ vốn chiếm cứ Nhũ Nam, dâng đồn thú cho Bắc Ngụy. Năm Thái Thủy thứ 3 (467), Trân Kỳ rồi dẫn lối cho Tây Hà công Thác Bạt Thạch của Ngụy vây đánh Phụ quốc tướng quân, Nhữ Âm thái thú Trương Cảnh Viễn (tức Trương Siêu), Miễn được làm Chinh lỗ tướng quân, Đốc Tây thảo tiền phong chư quân sự, giả tiết, trí tá, bản quan như cũ. Siêu với Quân chủ Dương Văn Trường đẩy lui Thác Bạt Thạch, không bao lâu thì bệnh mất; triều đình lấy Dương Văn Trường thay làm Nhữ Âm thái thú, trừ Miễn chức Hữu vệ tướng quân, vẫn làm Sứ trì tiết, Đô đốc Dự, Ti 2 châu chư quân sự, Chinh lỗ tướng quân, Dự Châu thứ sử, còn lại như cũ.

Năm thứ 4 (468), Miễn được trừ chức Thị trung, lĩnh Xạ Thanh hiệu úy, lại không nhận; được tiến hiệu Hữu tướng quân. Nhữ Dương tư mã Triệu Hoài Nhân của Ngụy đem 500 bộ kỵ đánh huyện Vũ Tân, Miễn sai Long tương tướng quân Khúc Nguyên Đức đem khinh binh chống trả, khiến quân Ngụy tan chạy. Tử Đô công Át Vu Bạt của Ngụy đem 300 người, dùng ngàn cỗ xe vận tải vây quanh, kết doanh trại ở thượng du sông ở phía đông Nhữ Dương Đài; Khúc Nguyên Đức một ngựa xôgn vào, chém đầu Bạt; quân Tống thừa thắng tiến đánh Nhữ Dương Đài, phá được lũy ngoài, bắt được 1300 cỗ xe, chém được 150 thủ cấp. Miễn lại sai Tư đồ tham quân Tôn Đàm Quán làm Đốc Dặc Dương dĩ tây, gặp quân Ngụy ở Nghĩa Dương, đại phá địch. Quân Ngụy thu tô của Bắc Dự Châu, có 2000 cỗ xe; Miễn chiêu mộ hoang nhân, đón đánh đoàn xe ở Hứa Xương; quân Ngụy tan chạy, quân Tống thiêu hủy lương thực.

Người Hoài Tây là Giả Nguyên Hữu dâng thư lên Minh đế, khuyên ra bắc tấn công Huyền Hồ, có thể thu được đất của 4 quận: Trần Quận, Nam Đốn, Nhữ Nam, Tân Thái. Minh đế đem thư cho Miễn xem, ông phản bác từng lời của Nguyên Hữu, khiến Minh đế từ bỏ ý định ấy.

Miễn gởi thư khuyên Thường Trân Kỳ phản Ngụy, Trân Kỳ cùng con trai Thường Siêu Việt, Vũ Lâm giám Viên Thức Bảo, ở Tiếu giết bọn Tử Đô công Phí Bạt hơn 3000 người của Ngụy. Miễn thông qua trạm dịch để báo tin, Minh đế cả mừng, phong quan cho bọn Trân Kỳ; sau đó quân Ngụy đến đánh, bọn Trân Kỳ bỏ chạy về nam; Trân Kỳ chạy thoát về Thọ Dương, Siêu Việt, Thức Bảo bị giết.

Trí sĩ làm gương

Năm thứ 5 (469), Nhữ Âm thái thú Dương Văn Trường lần lượt phá quân Ngụy ở Kinh Đình và Thú Tây, triều đình giáng chiếu cho Miễn tiến hiệu Bình tây tướng quân, Dự Châu thứ sử, còn lại như cũ, ông không nhận. Năm ấy, Miễn được trưng bái làm Tán kỵ thường thị, Trung lĩnh quân. Miễn muốn nghỉ, cố xin nhận chức ở quận Đông Dương; Minh đế đem tờ khải cho triều thần xem, từ Thượng thư bộc xạ Viên Sán trở xuống, chẳng ai không khen ngợi, đều nói không nên đồng ý. Minh đế muốn biểu dương Miễn làm gương, bèn đồng ý. Miễn quanh quẩn ở phía nam Tần Lĩnh, dùng làm nơi nghỉ ngơi, góp đá chứa nước, tự lấy làm vui; kẻ sĩ yêu sự trong sạch ấy, phần nhiều tìm đến thăm viếng.

Năm thứ 6 (470), Miễn được đổi thường thị làm thị trung. Năm ấy, Nam Duyện Châu thứ sử Tiêu Đạo Thành ra trấn Hoài Âm, triều đình lấy Miễn làm Sứ trì tiết, Đô đốc Nam Từ, Duyện, Thanh, Ký, Vi 5 châu chư quân sự, Bình bắc tướng quân, Thị trung, Trung lĩnh quân như cũ, ra trấn Quảng Lăng. Miễn cố từ chối quân hiệu, thị trung, triều đình đồng ý, lấy ông làm Giả Bình bắc tướng quân.

Năm thứ 7 (471), Miễn được cởi chức đô đốc, giả hiệu, gồm cả tiết. Minh đế lâm chung, cố mệnh lấy Miễn giữ chức Thượng thư hữu bộc xạ, Trung lĩnh quân như cũ, cấp 1 bộ Cổ xuy.

Thời Hậu phế đế

Lưu Tống Hậu phế đế nối ngôi, bộ khúc của Miễn được thêm 500 người. Đầu niên hiệu Nguyên Huy (473 – 477), tinh tượng xuất hiện điềm xấu, suy ra "tướng quân chết", có người khuyên Miễn cởi quan; ông cho rằng đạo trời kín kẽ, khó lòng tránh khỏi, nên không muốn rời bỏ nhiệm vụ. Quế Dương vương Lưu Hưu Phạm làm loạn (474), bất ngờ kéo đến kinh đô; Miễn được gia Sứ trì tiết, Lĩnh quân, đặt tá sử, trấn giữ Thạch Đầu. Đến khi phản quan đóng đồn ở phái nam cầu nổi Chu Tước, Hữu quân Vương Đạo Long soái túc vệ hướng về Chu Tước, nghe tin địch đã đến, gởi thư gấp gọi Miễn. Miễn đến, mệnh đóng cửa, Đạo Long không nghe, giục ông vượt cầu nổi đón đánh. Miễn soái quân bản bộ ở phía nam cầu nổi thất bại, chết ở trong trận, hưởng thọ 57 tuổi.

Dẹp loạn xong, triều đình tặng Miễn làm Tán kỵ thường thị, Tư không, bản quan, hầu tước như cũ, thụy là Trung Chiêu công.

Gia đình

  • Em trai là Lưu Hiệu, được phong tước Đô hương hầu; thời Minh đế được làm Ninh sóc tướng quân, Giao Châu thứ sử, bệnh mất trên đường, thụy là Chất hầu.
  • Con trai là Lưu Thuân, Lưu Huyên, Lưu Hội, Lưu Thiến. Thuân được kế tự.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lũ lụt miền Trung năm 2020** (hay còn được gọi là **Lũ chồng lũ**, **Lũ lịch sử**) là 1 đợt bão, lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, bắt đầu từ đêm ngày 6 tháng
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu Tông Mẫn** (chữ Hán: 劉宗敏, 1607 – 1645) là chủ tướng dưới trướng nghĩa quân Lý Tự Thành cuối thời Minh. ## Tiểu sử Mùa xuân năm Sùng Trinh thứ 11 (1638), Lý Tự
**Tổng thống Liên bang Nga** () là nguyên thủ quốc gia thực hiện quyền hành pháp của Nga. Tổng thống là chủ tịch Hội đồng Nhà nước Liên bang và là tổng tư lệnh tối
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Tổng thống Áo** () là nguyên thủ quốc gia của Áo. Chức vụ tổng thống được Quốc hội lập hiến Áo thành lập vào năm 1920 sau khi Đế quốc Áo-Hung và chế độ quân
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Tống đế Bính** (chữ Hán: 宋帝昺; 12 tháng 2, 1271 - 19 tháng 3, 1279), đôi khi gọi là **Tống Thiếu Đế** (宋少帝) là vị hoàng đế thứ 9 và là hoàng đế cuối cùng
**Lưu Khang Tổ** (chữ Hán: 刘康祖, ? - 451), nguyên quán huyện Lư, quận Bành Thành nhưng đã nhiều đời sống ở Kinh Khẩu, tướng lĩnh nhà Lưu Tống. ## Cuộc đời và sự nghiệp
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
nhỏ|Lưu vực right|thumb|Ảnh hoạt hình lưu vực [[sông Latorița, Romania Tập tin:Modelare 3D pentru Bazinul Hidrografic al Paraului Latorita.gif|354x354px]] **Lưu vực** là phần diện tích bề mặt đất trong tự nhiên mà mọi lượng nước
Mục đích chính của **tên miền** là để cung cấp một hình thức đại diện, hay nói cách khác, dùng những tên dễ nhận biết, thay cho những tài nguyên Internet mà đa số được
nhỏ|280x280px|Bốn chữ _Hồng ẩm sơn phòng_ do Lưu Dung viết theo lối thư pháp|thế= nhỏ|280x280px|Bốn chữ _Trình tử tứ châm_ do Lưu Dung viết treo tại một hành cung của Càn Long|thế= **Lưu Dung** (phồn
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Lưu Tống Hậu Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là **Lưu Dục** (), tên tự **Đức Dung** (德融), pháp danh **Huệ Chấn** (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong
**Lưu Sở Ngọc** (chữ Hán: 劉楚玉; ? - 2 tháng 1, 466), còn được biết đến qua phong hiệu **Sơn Âm công chúa** (山陰公主), là một công chúa của triều đại Lưu Tống, con gái
**Tông Xác** (chữ Hán: 宗愨, ? – 465) tự là **Nguyên Thiên**, người Niết Dương quận Nam Dương, tướng lĩnh nhà Lưu Tống thời Nam triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Binh nghiệp Tông
Lâm Xuyên Khang vương **Lưu Nghĩa Khánh** (chữ Hán: 刘义庆, 403 – 444), người Tuy Lý, Bành Thành, quan viên, nhà văn, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thăng tiến
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
phải|nhỏ| Cửa hàng miễn thuế điển hình tại [[Sân bay Zürich ]] phải|nhỏ| Cửa hàng miễn thuế tại Nhà ga số 3 của [[Sân bay quốc tế Thủ đô Bắc Kinh|Sân bay Quốc tế Thủ
Lựu đạn F1 (Nga) **F1** hay **Ф1** là một loại lựu đạn của Liên Xô cũ (nay là Liên bang Nga) sản xuất, biệt danh là _Лимонка_/_limonka_ (quả chanh). Đây là một loại vũ khí
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
nhỏ|Tổng hợp giọng nói Trên máy tính, **tổng hợp giọng nói** là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1896** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 28, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 3 tháng 11 năm 1896. Cựu
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 của Donald Trump** là chiến dịch tranh cử tổng thống cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024 đang diễn ra của cựu tổng thống thứ
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1860** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 19, được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 1860. Trong một cuộc
**Miêu, Lưu binh biến** (苗劉兵變), còn gọi là **Miêu Lưu chi biến** (苗劉之變), **Minh Thụ chi biến** (明受之變), là một cuộc đảo chính diễn ra vào tháng 3 đến tháng 4 năm Kiến Viêm thứ