✨Lưu Tông Mẫn

Lưu Tông Mẫn

Lưu Tông Mẫn (chữ Hán: 劉宗敏, 1607 – 1645) là chủ tướng dưới trướng nghĩa quân Lý Tự Thành cuối thời Minh.

Tiểu sử

Mùa xuân năm Sùng Trinh thứ 11 (1638), Lý Tự Thành bị quan quân Nhà Minh vây đánh tại Đồng Quan tỉnh Thiểm Tây, Lưu Tông Mẫn cùng Lý Tự Thành dẫn theo 18 tên tùy tùng đột phá vòng vây chạy về ẩn náu trong núi Thương Lạc. Tại đây, Lý Tự Thành tiếp tục thu thập những người của mình. Mùa hạ năm Sùng Trinh thứ 12 (1639), Tổng đốc Thiểm Tây Trịnh Sùng Kiềm đưa quân vây hãm Lý Tự Thành. Dương Tự Xương cũng đến vây núi Ba Tây và Ngư Phục, khiến quân đội của Lý Tự Thành gặp rất nhiều khó khăn. Sau nhờ Tông Mẫn hết lòng khuyên giải, mới bỏ ý định ra hàng quân Minh. Năm Sùng Trinh thứ 13 (1640), Tông Mẫn giúp Lý Tự Thành phá vòng vây các vùng núi Ba Tây, Ngư Phúc, đưa khinh kỵ binh ra khỏi huyện Vẫn tiến vào khu vực Hà Nam đang bị thiên tai, thanh thế lừng lẫy, kẻ theo về lên đến hàng vạn người.

Năm Sùng Trinh thứ 16 (1643), Lý Tự Thành đánh chiếm được Thừa Thiên, tự xưng là "Phụng thiên xướng nghĩa Đại nguyên soái". Lý Tự Thành coi xứ Kinh Tương là đất căn bản, đổi tên Tương Dương là Tương Kinh; đổi phủ Thừa Thiên thành châu Dương Vũ. Tiếp đó, dựa theo ý kiến của Ngưu Kim Tinh đặt các chức vụ quan lại, quy định các hàm tước; cử Điền Kiến Tú và Lưu Tông Mẫn làm "Quyền tướng quân". Tông Mẫn chỉ huy "trung doanh". Nghĩa quân thường gọi một cách thân mật rằng Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn là "ông già Lưu tổng tiêu". Tháng giêng năm Sùng Trinh thứ 17 (1644), Lý Tự Thành tuyên bố thành lập quốc gia tại Tây An, quốc hiệu Đại Thuận, niên hiệu Vĩnh Xương. Đổi tên Tây An thành Trường An, gọi là Tây Kinh. Lý Tự Thành bắt đầu sắc phong cho nhiều công thần. Lưu Tông Mẫn được phong Nhữ Hầu hầu. Tháng 2, Lưu Tông Mẫn theo Lý Tự Thành đưa quân đi chinh phục các miền phía đông. Họ xuất phát từ Thái Nguyên và Tuyên Hóa, chia đại quân thành hai cánh nam lộ và bắc lộ, phía đông vượt Hoàng Hà, hướng thẳng đến Bắc Kinh. Về sau Tông Mẫn trợ giúp Lý Tự Thành điều đông cánh quân bắc lộ đi qua Đại Đồng, Tuyên Phủ, đến dưới chân thành Bắc Kinh. Tối ngày 17 tháng 3 cùng năm, chỉ huy quân bắc lộ đánh chiếm ngoại thành. Ngày 19, nghĩa quân chiếm được kinh thành, Sùng Trinh đế tự sát tại Môi Sơn, Nhà Minh chính thức diệt vong.

Sau khi Lý Tự Thành tiến vào kinh sư, Lưu Tông Mẫn là quan to nhất của nghĩa quân, tất cả các quan văn đều phải nghe lời ông. Lưu Tông Mẫn vô cùng thù ghét đám quan lại triều Minh, liền thực thi chính sách "trợ hướng" (giúp đỡ tiền lương), thiết lập "Bì hướng Trấn phủ ty", Phong Cho Lưu Tông Mẫn Cùng Lý Quá Làm Chi Chúa,sai người đi vơ vét tài sản của quan lại bá hộ trong kinh thành. Lại còn quy định ngạch trợ hướng như sau: "Trung đường mười vạn, Bộ viện Kinh đường Cẩm y bảy vạn hoặc năm vạn ba vạn, Đạo khoa Lại bộ năm vạn ba vạn, Hàn lâm viện ba vạn hai vạn một vạn, bộ thuộc thì có bao nhiêu đóng bấy nhiêu".(theo ghi chép trong Giáp Thân hạch chân lược) Theo ghi chép trong cuốn Lộc Tiều kỷ văn, Ngô Tam Quế ban đầu có ý quy thuận Lý Tự Thành, nhưng nghe tin phụ thân bị Bì hướng Trấn phủ ty đánh đập tra tấn, cộng thêm việc Lưu Tông Mẫn chiếm đoạt ái thiếp Trần Viên Viên của mình, đã phẫn nộ từ chối quy thuận Lý Tự Thành. Nhà thơ thời Minh mạt Thanh sơ Ngô Vĩ Nghiệp trong Viên Viên khúc miêu tả cảnh tượng ấy như sau: "thống khốc tam quân câu cảo tố, xung quan nhất nộ vi hồng nhan", tiểu thuyết gia Diêu Tuyết Ngân trong bài viết Luận Viên Viên khúc, dựa theo khảo sát của ông thì Trần Viên Viên lúc đó không có mặt tại Bắc Kinh mà đang ở Ninh Viễn, không may mắc bệnh qua đời.

Ngày 26 tháng 3, để thuyết phục Lý Tự Thành làm lễ đăng quang, Lưu Tông Mẫn nói với đám quan lại rằng: "Ta và ngài ấy cùng chung hoạn nạn, sao mà không tôn thờ được?". Ngày 17 tháng 5, Lý Tự Thành triệu tập hội nghị quân sự tại Vũ Anh điện, dự định phái Lưu Tông Mẫn xuất binh ra Sơn Hải Quan thảo phạt Ngô Tam Quế, nhưng Lưu Cánh Đính can rằng: "Bọn chúng đều là một lũ giặc cỏ, chi bằng cứ ở yên trong kinh thành mà hưởng thụ, để tôi đi đến tiền tuyến làm tròn sứ mệnh?". Lý Tự Thành không nghe, chỉ muốn đích thân thống lĩnh đại quân thân chinh. Lưu Tông Mẫn không dám thoái thác lần nữa, đành theo Lý Tự Thành đi đánh Ngô Tam Quế. Ngày 26 tháng 5, quân Đại Thuận tấn công Sơn Hải Quan dữ dội, Ngô Tam Quế liều chết chống lại thế nhưng quân ít khó mà địch lại số đông. Về sau Ngô Tam Quế hàng Thanh, hợp sức cùng Đa Nhĩ Cổn đánh tan quân Đại Thuận, Lý Tự Thành vội dẫn tàn quân quay trở về Bắc Kinh, xưng đế chưa đầy một ngày rồi tháo chạy khỏi kinh thành. Lưu Tông Mẫn cũng đi theo Lý Tự Thành hành quân sang miền tây, và bị quân Thanh đánh bại tại Đồng Quan.

Hạ tuần tháng 4 năm Thuận Trị thứ 2 đời Thanh (1645), quân Thanh vượt hơn 40 dặm tiến vào thành Cửu Giang tỉnh Giang Tây đánh phá quân doanh toàn lính già yếu của quân Đại Thuận, Lưu Tông Mẫn trong lúc giao chiến tại Thông Sơn tỉnh Hồ Bắc cùng với hai người chú của Lý Tự Thành là Triệu Hầu và Tương Nam Hầu bị quân Thanh bắt được đem giết đi.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Tông Mẫn** (chữ Hán: 劉宗敏, 1607 – 1645) là chủ tướng dưới trướng nghĩa quân Lý Tự Thành cuối thời Minh. ## Tiểu sử Mùa xuân năm Sùng Trinh thứ 11 (1638), Lý Tự
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
Hành Dương Văn vương **Lưu Nghĩa Quý** (chữ Hán: 刘义季, 415 – 15 tháng 9, 447), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. Ông là người duy nhất
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
**Lưu Nghĩa Tuyên** (chữ Hán: 刘义宣, 413 – 454), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Nghĩa Tuyên là con
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu Khang Tổ** (chữ Hán: 刘康祖, ? - 451), nguyên quán huyện Lư, quận Bành Thành nhưng đã nhiều đời sống ở Kinh Khẩu, tướng lĩnh nhà Lưu Tống. ## Cuộc đời và sự nghiệp
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Lưu Thiệu Tư** () là cháu gọi Lưu Tòng Hiệu bằng chú, một quân phiệt thời Ngũ Đại Thập Quốc. Lưu Tòng Hiệu kiểm soát Thanh Nguyên quân với chức vụ tiết độ sứ từ
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Tống Trang công** (chữ Hán: 宋莊公;744 TCN-692 TCN, trị vì: 710 TCN-692 TCN), tên thật là **Tử Phùng** (子馮), là vị vua thứ 16 của nước Tống – chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Thẩm Khánh Chi**, tự **Hoằng Tiên**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, là danh tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Thẩm Khánh Chi từ nhỏ đã
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**An Phong**, thường được biết đến với nghệ danh **Lưu Diệc Phi** (; , sinh ngày 25 tháng 8 năm 1987), là một nữ diễn viên, người mẫu kiêm ca sĩ người Mỹ gốc Hoa.
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Lưu Tùng Hiệu** (; 906-962), là một tướng lĩnh của nước Mân thời Ngũ Đại Thập Quốc. Sau khi Mân diệt vong, ban đầu ông quy phục quốc gia chinh phục Mân là Nam Đường,
nhỏ|Tổng hợp giọng nói Trên máy tính, **tổng hợp giọng nói** là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này
là một bộ manga Nhật Bản do Hoshino Katsura sáng tác và minh họa. Lấy bối cảnh ở thế kỷ 19, truyện kể về Allen Walker - một thiếu niên tham gia tổ chức của
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Trương Hán Tư** () là một quân nhân của nước Mân thời Ngũ Đại Thập Quốc. Sau khi Mân diệt vong, ông phục vụ dưới quyền Lưu Tòng Hiệu- người kiểm soát Thanh Nguyên quân
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Nam Tề Vũ Đế** (chữ Hán: 南齊武帝; 440–493), tên húy là **Tiêu Trách** (), tên tự **Tuyên Viễn** (宣遠), biệt danh **Long Nhi** (龍兒), là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở
**Tống đế Bính** (chữ Hán: 宋帝昺; 12 tháng 2, 1271 - 19 tháng 3, 1279), đôi khi gọi là **Tống Thiếu Đế** (宋少帝) là vị hoàng đế thứ 9 và là hoàng đế cuối cùng
**A Tế Cách** (_,_ _chữ Hán:_ 阿濟格_,_ 28 tháng 8 năm 1605 - 28 tháng 11 năm 1651), là một Hoàng tử, Hoàng thân và nhà quân sự có ảnh hưởng thời kỳ đầu nhà
**Mãn Châu** là một tên gọi ngoại lai cho một số vùng đất lịch sử và địa lý lớn của Trung Quốc và Nga chồng lấn lên nhau ở Đông Bắc Á. Tùy thuộc vào
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Trần Vĩ** (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là **Tử Hoa**, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng
**A Mẫn** (, chữ Hán: 阿敏; 29 tháng 10 năm 1586 - 28 tháng 12 năm 1640), Ái Tân Giác La, là một trong Tứ đại Bối lặc, và là Hoàng thân có sức ảnh
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị