✨Phạm Trấn (Bắc Tống)
Phạm Trấn (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự Cảnh Nhân, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị, ông ủng hộ Tư Mã Quang, cực lực phản đối biến pháp của Vương An Thạch; về sử học, ông là người đầu tiên trong giai thoại Tam Phạm tu sử (三范修史) – 3 nhà sử học đến từ gia tộc họ Phạm ở Hoa Dương (2 người còn lại là cha con Phạm Tổ Vũ, Phạm Xung) .
Thiếu thời
Tổ tiên của Trấn dời từ Trường An đến Thục, ông tổ 6 đời Phạm Tổ Long là người đầu tiên được chôn cất ở Hoa Dương. Các đời trước của họ Phạm đều không làm quan, cha của Trấn là Phạm Độ nhờ con mà được tặng Khai phủ Nghi đồng tam tư, mẹ cả Lý thị được tặng Huỳnh Quốc thái phu nhân, mẹ ruột Bàng thị được tặng Xương Quốc thái phu nhân. Trấn là con trai út, có 2 anh trai là Tư và Hài. Tư được làm đến Lũng Thành lệnh, Hài được làm đến Vệ úy tự thừa.
Trấn lên 4 tuổi thì mồ côi cha, theo 2 anh học tập. Tri Ích Châu phủ Tiết Khuê ngẫu nhiên gặp Phạm Tư ở trên đường, hỏi thăm kẻ sĩ có thể làm tân khách cho mình, Tư bèn cho Trấn ra gặp. Trấn khi ấy mới 18 tuổi, Khuê cùng ông trò chuyện, lấy làm kỳ, nói: "Đại Phạm sợ rằng không thọ, đứa bé này sẽ trở thành nhân vật trong lang miếu đấy!" Đến khi về triều, Khuê cho xe chở Trấn cùng đi. Có người hỏi Khuê ở Thục lấy được gì không, ông ta nói: "Được 1 vĩ nhân, sẽ nhờ văn học mà nổi danh ở đời." Bấy giờ anh em Tống Tường, Tống Kỳ đã nổi danh ở kinh sư, xem văn của Trấn, tự nhận mình không theo kịp, nguyện cùng kẻ áo vải như Trấn kết giao; do vậy mà ông nổi danh. Nhân dịp cúng tế ở Thái Miếu, Trấn lại dâng phú nói mát. Về sau Hàn Kỳ quyết định sách lập Cự Lộc quận công Triệu Thự. Trấn được thăng làm Hàn Lâm học sĩ,
Năm Trì Bình thứ 2 (1065), Trấn soạn thảo chế thư thăng quan thay cho tể tướng Hàn Kỳ, dẫn chứng trường hợp của Chu Công, Hoắc Quang, bị gián quan Lữ Hối bác bỏ; vì thế Hàn Kỳ dâng biểu xin rời chức, Trấn lại lấy tấm gương Chu Công quản lý nhà Chu chứ không trị vì nước Lỗ, để khuyên ông ta đừng làm thế. Tống Anh Tông cho rằng Trấn không nên đem thánh nhân sánh với tể tướng, lại cho rằng Hàn Kỳ không thể ra đi, nên muốn bãi nội chức của ông. Trấn chịu đổi làm Thị độc học sĩ, nhân đó tể tướng khuyên dụ ông tự xin rời kinh sư. Tháng giêng ÂL năm sau, Trấn được trả lại hàm Hàn Lâm học sĩ, ra làm Tri Trần Châu. Trần Châu đang có nạn đói, Trấn mới đến 3 ngày, mở kho lẫm lấy số tiền, thóc trị giá 3000 quan để cho vay. Cơ quan chủ quản tra xét rất ngặt, Trấn lập tức tự hặc, triều đình giáng chiếu tha tội. Năm ấy Trần Châu được mùa, dân chúng trả hết nợ, mãi không quên ơn của Trấn.
Trấn tiến cử Tô Thức làm gián quan, ngự sử Tạ Cảnh Ôn tâu xin bãi ông ta. Trấn tiến cử Khổng Văn Trọng ứng thí Chế khoa; trong phần thi Đối sách (tức là vấn đáp), Văn Trọng nói tân pháp bất tiện, nên chịu bãi mà quay về chức vụ cũ. Cả hai sự kiện này, Trấn đều ra sức tranh luận, nhưng Tống Thần Tông không đáp lại; ông lấy cớ lời của mình không được nghe theo, chẳng còn mặt mũi ở lại triều đình, lập tức dâng sớ xin trí sĩ. Trấn dâng sớ 5 lần, lần sau cùng chỉ trích Vương An Thạch dùng tâm trạng vui – giận để thưởng phạt, còn nói: "Bệ hạ có trách nhiệm nghe can ngăn, đại thần lại hiến kế từ chối nghe can ngăn; bệ hạ có bản tính yêu dân, đại thần lại dùng thuật hại dân." Sớ dâng lên, Vương An Thạch giận, cầm sớ của Trấn mà run lên bần bật, tự thảo chế sắc trách mắng ông. Trấn chỉ được nhận chức Hộ bộ thị lang để trí sĩ (tức là mất chức Hàn Lâm học sĩ), còn ân điển đáng được nhận thì đều không có.
Hai lần trí sĩ
Trấn đã hưu, Tô Thức đến thăm, nói: "Ngài dẫu lui, mà danh ngày càng trọng đấy." Trấn xịu mặt mà nói rằng: "Quân tử ngôn thính kế tòng mới tiêu trừ họa hoạn còn chưa manh nha, khiến thiên hạ lẳng lặng nhận được ơn huệ của họ, không cầu danh vọng, chẳng cần công lao. Tôi không làm được như vậy, khiến thiên hạ bị hại mà tôi hưởng danh vọng, tôi có lòng dạ nào!?" Triều đình giáng chiếu bãi việc sửa nhạc, ban thưởng có phân biệt. Trấn không bằng lòng, nói: "Đây là nhạc của Lưu Kỷ, thần có làm gì đâu!"
Năm sau (1089), Trấn được chôn cất ở huyện Tương Thành, phủ Dĩnh Xương .
Tính cách
Trấn bình sanh cùng Tư Mã Quang rất thân thiết, nghị luận như nói ra từ 1 miệng, vả lại còn hẹn sống thì giúp nhau viết liệt truyện, chết thì làm văn bia (minh). Tư Mã Quang sanh thời làm truyện của Trấn, tỏ ra khâm phục thái độ dũng cảm, quyết đoán của ông; sau này Trấn làm văn bia của Quang, có câu: "Thời Hi Ninh bọn gian hoành hành, âm hiểm giảo hoạt, núp Thần Tông để lần mò vào trong." Lời ấy cay nghiệt, nên con của Quang là Tư Mã Khang gởi thư hỏi Tô Thức, Thức đáp: "Thức không viết thư trả lời, vì sợ chẳng phải là phúc của 3 nhà vậy." Rồi đổi văn bia ấy.
Trấn tính trong sạch thẳng thắn, đãi người chân thành, lại cung kính thận trọng, không nhắc đến lỗi lầm của người ta. Hễ gặp dịp quan trọng, nghị luận căng thẳng, Trấn tuy sắc mặt hòa hoãn nhưng lời lẽ hùng tráng, luôn muốn kế tục những bậc tiền nhân đã mất, dù ở trước mặt hoàng đế cũng không chịu nhún mình. Trấn dốc lòng làm việc nghĩa, kính trọng người già, giúp đỡ người trẻ; ở quê nhà, những việc hôn nhân hay tang ma gặp khó khăn, ông liền đứng ra làm chủ.
Anh cả Phạm Tư mất ở Lũng Thành, vốn không có con trai, nhưng Trấn nghe nói ông ta vẫn còn một đứa con hoang đang ở trong bụng mẹ (di phúc tử). Bấy giờ Trấn đang ở kinh sư, vẫn chưa làm quan, lập tức lên đường quay về đất Thục, vì đi bộ nên mất 2 năm mới tìm được 2 mẹ con ấy. Trấn nói: "Anh của tôi có chỗ khác người, trên mình có 4 núm vú, đứa trẻ này nếu cũng có thì đúng rồi!" Đứa trẻ thật sự có như thế, Trấn bèn đặt tên cho cậu ta là Bách Thường.
Thuở nhỏ Trấn ở quê nhà, theo học tiên sanh Bàng Trực Ôn. Con trai của thầy là Bàng Phưởng mất ở kinh sư, Trấn hỏi cưới con gái của Phưởng cho cháu trai mình, nuôi dưỡng vợ con của ông ta đến trọn đời.
Những năm cuối đời Trấn dọn nhà đến Hứa Châu, được người Hứa vừa yêu vừa kính. Nghe tin Trấn mất, người Hứa đều rơi nước mắt.
Học nghiệp
Học vấn của Trấn chỉ có Lục kinh, ông không hề nhắc đến học thuyết của Phật giáo, Lão giáo, Thân Bất Hại, Hàn Phi. Văn của Trấn thanh tú, sâu xa, người có học đều làm khuôn phép của bậc thầy, được truyền sang nhà Liêu và Cao Ly. Thiếu thời Trấn làm bài phú Trường khiếu khước hồ kỵ, cuối đời ông đi sứ nhà Liêu, người Liêu nhìn nhau mà nói: "Đây là Trường Khiếu công đấy." Con trai của anh trai thứ Phạm Hài là Phạm Bách Lộc cũng đi sứ nhà Liêu, người Liêu bèn hỏi thăm sức khỏe của ông.
Tầm 30 tuổi, Trấn gia nhập Hàn Lâm viện, được làm Tri cống cử (tức là Chủ khảo) vào các năm Gia Hữu thứ 2 (1057), thứ 6 (1061), thứ 8 (1063) thời Tống Nhân Tông và Trì Bình thứ 2 (1065) thời Tống Anh Tông, nên có môn sanh ở khắp thiên hạ, người quý hiển nhiều không đếm xuể.
Tác phẩm
Trấn đã phụng chiếu tham gia biên soạn các bộ sách Tân Đường thư, Nhân Tông thực lục, Ngọc điệp , Nhật lịch, Loại thiên .
Các tác phẩm cá nhân của Trấn gồm có:
Văn tập, 100 quyển
Gián viên tập, 10 quyển
Nội chế tập, 30 quyển
Ngoại chế tập, 10 quyển
Chánh ngôn, 3 quyển
Nhạc thư, 3 quyển
Quốc triều vận đối, 3 quyển
Quốc triều sự thủy, 1 quyển
Đông trai ký sự, 10 quyển
Đao bút, 8 quyển
- Tác phẩm tiêu biểu: Đông trai ký sự (东斋记事) là tác phẩm thuộc thể loại bút ký, ghi lại những sự kiện đương thời dưới góc nhìn chủ quan của Trấn. Ngày nay Đông trai ký sự là nguồn sử liệu quan trọng để tìm hiểu điển chương chế độ nhà Bắc Tống, còn có ghi chép dật sự của giới sĩ phu, ghi chép phong thổ, nhân tình của đất Thục đương thời. Tháng 9 năm 1980, Nhà xuất bản Trung Hoa thư cục ghép Đông trai ký sự với Xuân minh thối triều lục của Tống Mẫn Cầu để ấn hành. Quyển sách này nằm trong bộ tùng thư Đường Tống sử liệu bút ký tùng san, dày 58 trang, ISBN 9787101017649.
Gia đình
Vợ
- Vợ đầu là Trương thị, được truy phong Thanh Hà quận quân.
- Vợ kế là Lý thị, được phong Trường An quận quân.
Con trai
Phạm Yến Tôn, chết yểu (Yến Tôn là nhụ danh).
Phạm Bách Quỹ, được làm đến Tuyên đức lang, Giám Trung Nhạc miếu.
Phạm Bách Gia, được làm đến Thừa vụ lang, mất trước Trấn 1 năm.
Phạm Bách Tuế, được làm đến Thái Khang chủ bộ, mất trước Trấn 6 năm.
Phạm Bách Lự, được làm đến Thừa vụ lang.
Con gái
- Phạm thị, được gả cho Tả tư gián Ngô An Thi, mất trước khi Trấn trí sĩ lần thứ 2.
của miền Bắc Việt Nam