✨Phạm Trấn (Bắc Tống)

Phạm Trấn (Bắc Tống)

Phạm Trấn (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự Cảnh Nhân, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị, ông ủng hộ Tư Mã Quang, cực lực phản đối biến pháp của Vương An Thạch; về sử học, ông là người đầu tiên trong giai thoại Tam Phạm tu sử (三范修史) – 3 nhà sử học đến từ gia tộc họ Phạm ở Hoa Dương (2 người còn lại là cha con Phạm Tổ Vũ, Phạm Xung) .

Thiếu thời

Tổ tiên của Trấn dời từ Trường An đến Thục, ông tổ 6 đời Phạm Tổ Long là người đầu tiên được chôn cất ở Hoa Dương. Các đời trước của họ Phạm đều không làm quan, cha của Trấn là Phạm Độ nhờ con mà được tặng Khai phủ Nghi đồng tam tư, mẹ cả Lý thị được tặng Huỳnh Quốc thái phu nhân, mẹ ruột Bàng thị được tặng Xương Quốc thái phu nhân. Trấn là con trai út, có 2 anh trai là Tư và Hài. Tư được làm đến Lũng Thành lệnh, Hài được làm đến Vệ úy tự thừa.

Trấn lên 4 tuổi thì mồ côi cha, theo 2 anh học tập. Tri Ích Châu phủ Tiết Khuê ngẫu nhiên gặp Phạm Tư ở trên đường, hỏi thăm kẻ sĩ có thể làm tân khách cho mình, Tư bèn cho Trấn ra gặp. Trấn khi ấy mới 18 tuổi, Khuê cùng ông trò chuyện, lấy làm kỳ, nói: "Đại Phạm sợ rằng không thọ, đứa bé này sẽ trở thành nhân vật trong lang miếu đấy!" Đến khi về triều, Khuê cho xe chở Trấn cùng đi. Có người hỏi Khuê ở Thục lấy được gì không, ông ta nói: "Được 1 vĩ nhân, sẽ nhờ văn học mà nổi danh ở đời." Bấy giờ anh em Tống Tường, Tống Kỳ đã nổi danh ở kinh sư, xem văn của Trấn, tự nhận mình không theo kịp, nguyện cùng kẻ áo vải như Trấn kết giao; do vậy mà ông nổi danh. Nhân dịp cúng tế ở Thái Miếu, Trấn lại dâng phú nói mát. Về sau Hàn Kỳ quyết định sách lập Cự Lộc quận công Triệu Thự. Trấn được thăng làm Hàn Lâm học sĩ,

Năm Trì Bình thứ 2 (1065), Trấn soạn thảo chế thư thăng quan thay cho tể tướng Hàn Kỳ, dẫn chứng trường hợp của Chu Công, Hoắc Quang, bị gián quan Lữ Hối bác bỏ; vì thế Hàn Kỳ dâng biểu xin rời chức, Trấn lại lấy tấm gương Chu Công quản lý nhà Chu chứ không trị vì nước Lỗ, để khuyên ông ta đừng làm thế. Tống Anh Tông cho rằng Trấn không nên đem thánh nhân sánh với tể tướng, lại cho rằng Hàn Kỳ không thể ra đi, nên muốn bãi nội chức của ông. Trấn chịu đổi làm Thị độc học sĩ, nhân đó tể tướng khuyên dụ ông tự xin rời kinh sư. Tháng giêng ÂL năm sau, Trấn được trả lại hàm Hàn Lâm học sĩ, ra làm Tri Trần Châu. Trần Châu đang có nạn đói, Trấn mới đến 3 ngày, mở kho lẫm lấy số tiền, thóc trị giá 3000 quan để cho vay. Cơ quan chủ quản tra xét rất ngặt, Trấn lập tức tự hặc, triều đình giáng chiếu tha tội. Năm ấy Trần Châu được mùa, dân chúng trả hết nợ, mãi không quên ơn của Trấn.

Trấn tiến cử Tô Thức làm gián quan, ngự sử Tạ Cảnh Ôn tâu xin bãi ông ta. Trấn tiến cử Khổng Văn Trọng ứng thí Chế khoa; trong phần thi Đối sách (tức là vấn đáp), Văn Trọng nói tân pháp bất tiện, nên chịu bãi mà quay về chức vụ cũ. Cả hai sự kiện này, Trấn đều ra sức tranh luận, nhưng Tống Thần Tông không đáp lại; ông lấy cớ lời của mình không được nghe theo, chẳng còn mặt mũi ở lại triều đình, lập tức dâng sớ xin trí sĩ. Trấn dâng sớ 5 lần, lần sau cùng chỉ trích Vương An Thạch dùng tâm trạng vui – giận để thưởng phạt, còn nói: "Bệ hạ có trách nhiệm nghe can ngăn, đại thần lại hiến kế từ chối nghe can ngăn; bệ hạ có bản tính yêu dân, đại thần lại dùng thuật hại dân." Sớ dâng lên, Vương An Thạch giận, cầm sớ của Trấn mà run lên bần bật, tự thảo chế sắc trách mắng ông. Trấn chỉ được nhận chức Hộ bộ thị lang để trí sĩ (tức là mất chức Hàn Lâm học sĩ), còn ân điển đáng được nhận thì đều không có.

Hai lần trí sĩ

Trấn đã hưu, Tô Thức đến thăm, nói: "Ngài dẫu lui, mà danh ngày càng trọng đấy." Trấn xịu mặt mà nói rằng: "Quân tử ngôn thính kế tòng mới tiêu trừ họa hoạn còn chưa manh nha, khiến thiên hạ lẳng lặng nhận được ơn huệ của họ, không cầu danh vọng, chẳng cần công lao. Tôi không làm được như vậy, khiến thiên hạ bị hại mà tôi hưởng danh vọng, tôi có lòng dạ nào!?" Triều đình giáng chiếu bãi việc sửa nhạc, ban thưởng có phân biệt. Trấn không bằng lòng, nói: "Đây là nhạc của Lưu Kỷ, thần có làm gì đâu!"

Năm sau (1089), Trấn được chôn cất ở huyện Tương Thành, phủ Dĩnh Xương .

Tính cách

Trấn bình sanh cùng Tư Mã Quang rất thân thiết, nghị luận như nói ra từ 1 miệng, vả lại còn hẹn sống thì giúp nhau viết liệt truyện, chết thì làm văn bia (minh). Tư Mã Quang sanh thời làm truyện của Trấn, tỏ ra khâm phục thái độ dũng cảm, quyết đoán của ông; sau này Trấn làm văn bia của Quang, có câu: "Thời Hi Ninh bọn gian hoành hành, âm hiểm giảo hoạt, núp Thần Tông để lần mò vào trong." Lời ấy cay nghiệt, nên con của Quang là Tư Mã Khang gởi thư hỏi Tô Thức, Thức đáp: "Thức không viết thư trả lời, vì sợ chẳng phải là phúc của 3 nhà vậy." Rồi đổi văn bia ấy.

Trấn tính trong sạch thẳng thắn, đãi người chân thành, lại cung kính thận trọng, không nhắc đến lỗi lầm của người ta. Hễ gặp dịp quan trọng, nghị luận căng thẳng, Trấn tuy sắc mặt hòa hoãn nhưng lời lẽ hùng tráng, luôn muốn kế tục những bậc tiền nhân đã mất, dù ở trước mặt hoàng đế cũng không chịu nhún mình. Trấn dốc lòng làm việc nghĩa, kính trọng người già, giúp đỡ người trẻ; ở quê nhà, những việc hôn nhân hay tang ma gặp khó khăn, ông liền đứng ra làm chủ.

Anh cả Phạm Tư mất ở Lũng Thành, vốn không có con trai, nhưng Trấn nghe nói ông ta vẫn còn một đứa con hoang đang ở trong bụng mẹ (di phúc tử). Bấy giờ Trấn đang ở kinh sư, vẫn chưa làm quan, lập tức lên đường quay về đất Thục, vì đi bộ nên mất 2 năm mới tìm được 2 mẹ con ấy. Trấn nói: "Anh của tôi có chỗ khác người, trên mình có 4 núm vú, đứa trẻ này nếu cũng có thì đúng rồi!" Đứa trẻ thật sự có như thế, Trấn bèn đặt tên cho cậu ta là Bách Thường.

Thuở nhỏ Trấn ở quê nhà, theo học tiên sanh Bàng Trực Ôn. Con trai của thầy là Bàng Phưởng mất ở kinh sư, Trấn hỏi cưới con gái của Phưởng cho cháu trai mình, nuôi dưỡng vợ con của ông ta đến trọn đời.

Những năm cuối đời Trấn dọn nhà đến Hứa Châu, được người Hứa vừa yêu vừa kính. Nghe tin Trấn mất, người Hứa đều rơi nước mắt.

Học nghiệp

Học vấn của Trấn chỉ có Lục kinh, ông không hề nhắc đến học thuyết của Phật giáo, Lão giáo, Thân Bất Hại, Hàn Phi. Văn của Trấn thanh tú, sâu xa, người có học đều làm khuôn phép của bậc thầy, được truyền sang nhà Liêu và Cao Ly. Thiếu thời Trấn làm bài phú Trường khiếu khước hồ kỵ, cuối đời ông đi sứ nhà Liêu, người Liêu nhìn nhau mà nói: "Đây là Trường Khiếu công đấy." Con trai của anh trai thứ Phạm Hài là Phạm Bách Lộc cũng đi sứ nhà Liêu, người Liêu bèn hỏi thăm sức khỏe của ông.

Tầm 30 tuổi, Trấn gia nhập Hàn Lâm viện, được làm Tri cống cử (tức là Chủ khảo) vào các năm Gia Hữu thứ 2 (1057), thứ 6 (1061), thứ 8 (1063) thời Tống Nhân Tông và Trì Bình thứ 2 (1065) thời Tống Anh Tông, nên có môn sanh ở khắp thiên hạ, người quý hiển nhiều không đếm xuể.

Tác phẩm

Trấn đã phụng chiếu tham gia biên soạn các bộ sách Tân Đường thư, Nhân Tông thực lục, Ngọc điệp , Nhật lịch, Loại thiên .

Các tác phẩm cá nhân của Trấn gồm có:

Văn tập, 100 quyển

Gián viên tập, 10 quyển

Nội chế tập, 30 quyển

Ngoại chế tập, 10 quyển

Chánh ngôn, 3 quyển

Nhạc thư, 3 quyển

Quốc triều vận đối, 3 quyển

Quốc triều sự thủy, 1 quyển

Đông trai ký sự, 10 quyển

Đao bút, 8 quyển

  • Tác phẩm tiêu biểu: Đông trai ký sự (东斋记事) là tác phẩm thuộc thể loại bút ký, ghi lại những sự kiện đương thời dưới góc nhìn chủ quan của Trấn. Ngày nay Đông trai ký sự là nguồn sử liệu quan trọng để tìm hiểu điển chương chế độ nhà Bắc Tống, còn có ghi chép dật sự của giới sĩ phu, ghi chép phong thổ, nhân tình của đất Thục đương thời. Tháng 9 năm 1980, Nhà xuất bản Trung Hoa thư cục ghép Đông trai ký sự với Xuân minh thối triều lục của Tống Mẫn Cầu để ấn hành. Quyển sách này nằm trong bộ tùng thư Đường Tống sử liệu bút ký tùng san, dày 58 trang, ISBN 9787101017649.

Gia đình

Vợ

  • Vợ đầu là Trương thị, được truy phong Thanh Hà quận quân.
  • Vợ kế là Lý thị, được phong Trường An quận quân.

Con trai

Phạm Yến Tôn, chết yểu (Yến Tôn là nhụ danh).

Phạm Bách Quỹ, được làm đến Tuyên đức lang, Giám Trung Nhạc miếu.

Phạm Bách Gia, được làm đến Thừa vụ lang, mất trước Trấn 1 năm.

Phạm Bách Tuế, được làm đến Thái Khang chủ bộ, mất trước Trấn 6 năm.

Phạm Bách Lự, được làm đến Thừa vụ lang.

Con gái

  • Phạm thị, được gả cho Tả tư gián Ngô An Thi, mất trước khi Trấn trí sĩ lần thứ 2.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trần Bắc Hà** (19 tháng 8 năm 1956 - 18 tháng 7 năm 2019) từng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) (2008-2016) và Tổng
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Thuận Tông** (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì
**Trần Dụ Tông** (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm
**Trận Bắc Lệ** hay còn gọi là **Trận cầu Quan Âm**, đã diễn ra từ ngày 23 tháng 6 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 7 cùng năm, là một trận giao
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trần Dịch** (chữ Hán: 陈绎, ? – ?), tự **Hòa Thúc**, người Khai Phong , quan viên nhà Bắc Tống. ## Thời Tống Anh Tông Dịch đỗ tiến sĩ, được làm Quán các hiệu khám,
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 张昭, 894 – 972), tự **Tiềm Phu**, người huyện Phạm, Bộc Châu . Ông là sử quan đã hoạt động gần trọn đời Ngũ Đại cho đến đầu đời Tống, phục
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
**Trần Tĩnh** (chữ Hán: 陳靖, 948 – 1025), tên tự là **Đạo Khanh**, người huyện Phủ Điền, quân Hưng Hóa , là quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông được sử
**Hứa Quân** (chữ Hán: 許均, ? – 1007), người phủ Khai Phong , tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Tống Thái Tổ Cha Hứa Quân là Hứa Mạc,
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Mai Chí** (chữ Hán: 梅挚, ? – ?), tự **Công Nghi**, người huyện Tân Phồn, phủ Thành Đô , quan viên nhà Bắc Tống. ## Sự nghiệp Chí xuất thân tiến sĩ, ban đầu được
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 刘谦, ? – ?), tự Hán Tông, người phủ Khai Phong , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Sự nghiệp Thời trẻ Khiêm được bổ làm Vệ sĩ, qua vài lần
nhỏ|Lược đồ chiến dịch Thổ Mộc bảo **Trận bảo vệ kinh sư**, còn gọi là **Trận bảo vệ Bắc Kinh**, diễn ra vào tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449) dưới thời Minh Anh
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Trận Hà Nội đông xuân 1946-47** là sự kiện khởi động Chiến tranh Đông Dương giữa các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) và tập đoàn quân viễn chinh Pháp từ
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
Các tiểu vùng địa lý tự nhiên
của miền Bắc Việt Nam
nhỏ|Tây Bắc Bộ (đỏ) trong Việt Nam **Tây Bắc Bộ** là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Đặng Trần Đức** (19 tháng 10 năm 192226 tháng 3 năm 2004; sinh tại Thanh Trì, Hà Nội), bí danh **Ba Quốc** – **3Q**, tên công khai khi hoạt động tình báo tại Sài Gòn
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Trường Đại học Sư phạm** (tiếng Anh: _Thai Nguyen University of Education_) là một trường đại học thành viên của Đại học Thái Nguyên. Trường có vai trò là trung tâm đào tạo đại học,
**Trận phòng thủ pháo đài Brest** là một trận đánh diễn ra giữa quân đội phát xít Đức với lực lượng Hồng quân Xô Viết đồn trú trong pháo đài Brest. Về cơ bản, trận