✨Trận Bắc Kinh (1449)

Trận Bắc Kinh (1449)

nhỏ|Lược đồ chiến dịch Thổ Mộc bảo Trận bảo vệ kinh sư, còn gọi là Trận bảo vệ Bắc Kinh, diễn ra vào tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449) dưới thời Minh Anh Tông nhà Minh. Đây là cuộc chiến mà triều Minh, dưới sự lãnh đạo của Binh bộ Thượng thư Vu Khiêm, đã chống lại đại quân của thủ lĩnh Ngõa Lạt Mông Cổ, Dã Tiên, tấn công kinh thành Bắc Kinh.

Bối cảnh

Đầu thời Minh, Ngõa Lạt (Oirat) do hai cha con Mã Hãn Mộc (Mahamud) và Thoát Hoan (Toghon) lần lượt cai quản. Ngõa Lạt là một trong các bộ tộc Mông Cổ tại vùng Tái Bắc Trung Quốc, thường xuyên có xung đột với bộ tộc Thát Đát (Tatar) ở phía Đông. Năm Chính Thống thứ 4 (1439), thủ lĩnh Ngõa Lạt Thoát Hoan qua đời, con trai ông là Dã Tiên (Esen) kế vị và tự xưng "Thái sư Hoài vương". Sau khi lên ngôi, Dã Tiên dùng vũ lực thống nhất các bộ tộc Mông Cổ, chinh phục ba vệ Ngột Lương Cáp (Uriangkhai) vốn thuộc quyền quản lý của nhà Minh, khiến thế lực Ngõa Lạt ngày càng mạnh và nhiều lần xâm phạm biên giới phía bắc Trung Quốc.

Đến năm Chính Thống thứ 14 (1449), đầu năm, Dã Tiên cử 2.000 người mang ngựa sang triều Minh triều cống nhưng khai khống thành 3.000 để nhận nhiều quà cáp từ triều đình hơn. Minh triều phát giác sự việc, chỉ thưởng theo số lượng thực tế và giảm giá ngựa. Khi biết chuyện, Dã Tiên vô cùng phẫn nộ. Đến tháng 7 cùng năm, ông tập hợp toàn bộ lực lượng, phát động cuộc tấn công lớn vào biên giới nhà Minh.

Lúc này, thái giám Vương Chấn đang nắm quyền hành lớn trong triều. Vương Chấn xúi giục Minh Anh Tông dẫn đầu 50 vạn quân ra chiến trường. Tháng 8, đại quân Minh vừa đến Đại Đồng, Sơn Tây thì nhận được tin các cánh quân Minh ở tiền tuyến liên tiếp thất bại. Vương Chấn không dám tiến lên mà ra lệnh rút quân. Khi đến Thổ Mộc bảo, đại quân Minh bị quân Ngõa Lạt bao vây. Sau nhiều ngày bị tấn công, toàn bộ quân Minh bị tiêu diệt, Vương Chấn và nhiều tướng lĩnh thiệt mạng, còn Anh Tông bị bắt sống. Sự kiện này được gọi là Sự biến Thổ Mộc bảo. Dã Tiên, nhân cơ hội chủ lực triều Minh tan rã, triều đình không người lãnh đạo, kinh sư trống vắng và lòng dân hoang mang, đã dẫn đại quân tiến xuống phía nam, nhằm tấn công kinh thành Thuận Thiên phủ (Bắc Kinh), ép nhà Minh phải đầu hàng.

Chuẩn bị

Vào tháng 8 năm Chính Thống thứ 14 (1449), khi tin tức về thất bại của quân Minh và việc Anh Tông bị bắt đến kinh sư, cả triều đình rúng động, văn võ bá quan không biết phải làm gì, "quần thần tụ tập khóc lóc trong triều." Ngày 18 tháng 8, Thái hậu Tôn thị ra lệnh cho Chu Kỳ Ngọc, em ruột của hoàng đế, tức Thành vương, đảm nhận chức Giám quốc, đồng thời triệu tập triều thần để bàn bạc kế sách đối phó.

Một số đại thần, đứng đầu là Từ Hữu Trinh, đề xuất dời đô về Nam Kinh nhằm tránh mũi nhọn của quân Ngõa Lạt. Tuy nhiên, Binh bộ Thị lang Vu Khiêm cương quyết phản đối, cho rằng: "Kinh sư là căn bản của thiên hạ, nếu dời đi thì mọi việc lớn đều tiêu tan". Ông lấy câu chuyện triều Tống dời đô về phía nam làm bài học lịch sử, đồng thời tuyên bố sẽ chém đầu bất kỳ ai nhắc lại chuyện đô. Thượng thư Lại bộ Vương Trực và Đại học sĩ Nội các Trần Tuân đều đồng tình với Vu Khiêm. Cuối cùng, triều đình quyết định kiên quyết cố thủ Bắc Kinh.

Để trấn an lòng dân, ngày 23 tháng 8, triều Minh ra lệnh tịch thu tài sản và tru di cửu tộc Vương Chấn, kẻ chủ mưu gây ra Biến cố Thổ Mộc bảo. Đến ngày 29 tháng 8, văn võ bá quan cùng thỉnh cầu Hoàng thái hậu lập Giám quốc Thành vương làm hoàng đế, tức Minh Cảnh Đế, đồng thời truy tôn Chu Kỳ Trấn (Anh Tông bị bắt) làm Thái thượng hoàng, phá tan âm mưu của Ngõa Lạt sử dụng Anh Tông để uy hiếp triều Minh.

Vu Khiêm được thăng chức Binh bộ Thượng thư, tích cực chuẩn bị chiến đấu. Sau đó, các đội quân cứu viện từ Lưỡng Kinh (Nam Kinh và Bắc Kinh), Hà Nam, Sơn Đông lần lượt đến kinh sư. Vu Khiêm chỉnh đốn quân đội, tuyển chọn tướng lĩnh mới và huấn luyện binh sĩ, đồng thời ra lệnh các đội quân phòng thủ biên giới khẩn trương củng cố các cửa ải lớn nhỏ dọc biên thùy.

Diễn biến

Ngày 1 tháng 10, quân Ngõa Lạt do Dã Tiên chỉ huy chia làm ba đạo tiến đánh Bắc Kinh. Cánh quân phía đông xuất phát từ Cổ Bắc khẩu đánh vào Mật Vân; cánh quân trung lộ xuất phát từ Tuyên Phủ nhằm vào Cư Dung quan; đạo quân phía tây do đích thân Dã Tiên dẫn đầu, áp giải Minh Anh Tông từ Tập Ninh, qua Đại Đồng, Dương Hòa, công phá Bạch Dương khẩu rồi tiếp tục nam tiến công kích Tử Kinh quan. Triều đình nhà Minh hay tin quân Ngõa Lạt đang áp sát kinh thành liền ban lệnh giới nghiêm, đồng thời điều động các phiên vương nhanh chóng đưa binh lực về hộ vệ kinh sư. Ngày mùng 8 tháng 10, Minh Cảnh Đế giao quyền tổng chỉ huy quân sự toàn thành cho Vu Khiêm, đồng thời ân xá và điều hai tướng lĩnh Lưu An và Vương Thông đang bị giam trong ngục ra phối hợp phòng thủ.

Ngày 9 tháng 10, quân Ngõa Lạt nhờ sự dẫn đường của thái giám phản bội triều Minh là Hỷ Ninh, bất ngờ vượt núi theo đường nhỏ đánh chiếm Tử Kinh quan, Phó đô ngự sử Tôn Tường tử trận tại đây. Hai đạo quân Ngõa Lạt từ Tử Kinh quan và Bạch Dương khẩu nhanh chóng tiến sát kinh thành. Triều đình vội vã triệu tập văn võ bá quan thương thảo kế hoạch ứng phó. Tổng binh kinh sư Thạch Hanh đề nghị đóng chặt các cửa thành, cố thủ trong thành để chờ quân địch mệt mỏi tự rút lui. Tuy nhiên, Vu Khiêm kiên quyết phản đối, cho rằng đây là kế sách yếu nhược, chỉ càng khuyến khích sự hung hăng của quân địch. Ông chủ trương lập trận thế chủ động bên ngoài cổng thành để trực diện đón đánh quân Ngõa Lạt. Vu Khiêm điều động 22 vạn quân bố trí phòng thủ tại chín cửa thành, rồi hạ lệnh đóng kín các cửa để sẵn sàng giao chiến. Do quân lệnh nghiêm minh, các tướng sĩ đều quyết tâm chiến đấu đến cùng. Ngay sau đó, hai tướng Cao Lễ và Mao Phúc Thọ chỉ huy quân Minh đánh bại quân Ngõa Lạt ở phía bắc cửa Chương Nghĩa môn, bắt sống một viên thủ lĩnh quân Mông Cổ. Minh Cảnh Đế hết sức vui mừng, lệnh cho Vu Khiêm tuyển chọn tinh binh trấn giữ các vị trí trọng yếu, đồng thời giao các nội thần Hưng An và Lý Vĩnh Xương phối hợp cùng Vu Khiêm điều hành quân vụ.

Ngày 11 tháng 10, quân Ngõa Lạt áp sát thành Bắc Kinh, đưa Thái thượng hoàng Chu Kỳ Trấn đến trước cửa Đức Thắng môn nhằm gây áp lực với quân phòng thủ. Tướng Minh là Cao Lễ và Mao Phúc Thọ đánh chặn quân địch tại phía bắc cửa Chương Nghĩa môn, giành thắng lợi bước đầu. Thấy tình thế bất lợi, Dã Tiên không dám mạo hiểm tiến công trực diện. Theo kế sách của thái giám phản bội Hỷ Ninh, Dã Tiên giả vờ nghị hòa, mời Vu Khiêm cùng các quan viên triều đình ra ngoài thành nghênh đón Minh Anh Tông, ý định là nhân cơ hội đó bắt giữ các đại thần nhà Minh để khiến quân Minh mất đi người lãnh đạo. Tuy nhiên, Vu Khiêm nhận ra âm mưu của Dã Tiên, ông chỉ phái hai quan viên cấp thấp là Vương Phục và Triệu Vinh ra ngoài gặp mặt Anh Tông, còn bản thân ông vẫn tích cực chỉ huy quân đội ứng chiến.

Ngày 13 tháng 10, Dã Tiên quyết định tấn công vào cửa Đức Thắng môn. Vu Khiêm sớm dự liệu tình hình, sai Thạch Hanh bố trí phục binh trong các nhà dân hai bên đường dẫn vào thành, đồng thời chỉ dùng một đội kỵ binh nhỏ ra khiêu chiến rồi giả vờ rút lui. Quân Ngõa Lạt thấy vậy lập tức truy kích với hơn một vạn kỵ binh, rơi vào trận địa phục kích của quân Minh. Phạm Quảng chỉ huy Thần Cơ doanh bất ngờ khai hỏa bằng pháo và hỏa khí, trong khi Thạch Hanh tung quân mai phục hai bên đường ra tấn công dữ dội. Quân Ngõa Lạt đại bại, hai em trai Dã Tiên là Bột La và Bình chương Mão Na Hài tử trận tại chỗ. Sau thất bại này, quân Ngõa Lạt quay sang tấn công Tây Trực môn nhưng cũng bị tướng Minh là Tôn Đường đánh tan. Tôn Đường truy kích quá sâu, bị quân Ngõa Lạt bao vây, may nhờ các tướng Cao Lễ, Mao Phúc Thọ và Thạch Hanh kịp thời ứng cứu, quân Ngõa Lạt bị ép lui về phía bắc.

Sau hai lần tấn công không thành vào Đức Thắng môn và Tây Trực môn, quân Ngõa Lạt chuyển hướng tấn công cửa Chương Nghĩa môn. Vu Khiêm điều động các tướng Vũ Hưng, Vương Kính và Vương Dũng ra ứng chiến. Quân Minh ban đầu đẩy lui được lực lượng tiên phong của quân Ngõa Lạt bằng cung tên, hỏa khí và vũ khí cận chiến, nhưng sau đó đội hình bị rối loạn và phải rút lui trước đợt phản công của quân Ngõa Lạt. Trong cuộc giao tranh này, tướng Vũ Hưng trúng tên tử trận, quân Minh phải lùi về tuyến phòng thủ cuối cùng tại khu vực tường thành đất. Tại đây, người dân địa phương hỗ trợ quân Minh bằng cách ném gạch đá, góp phần ngăn cản bước tiến của quân Ngõa Lạt. Khi quân Minh nhận được viện binh, quân Ngõa Lạt quyết định rút lui.

Trong năm ngày giao chiến, dưới sự chỉ huy của Vu Khiêm, quân Minh nhiều lần đánh lui các đợt tấn công của quân Ngõa Lạt. Cùng thời điểm đó tại Cư Dung quan, quân Minh tận dụng thời tiết giá rét, dùng nước làm đóng băng các bức tường thành để ngăn chặn quân Ngõa Lạt. Trước tình thế bất lợi và nguy cơ bị cắt đứt đường rút lui, ngày 15 tháng 10, Dã Tiên ra lệnh toàn quân triệt thoái. Vu Khiêm cho quân truy kích gây tổn thất đáng kể cho lực lượng Ngõa Lạt. Người dân địa phương cũng tham gia tiến công vào quân Ngõa Lạt đang rút lui, thu hồi được nhiều tài sản và người dân bị bắt trước đó. Đến ngày 8 tháng 11, quân Ngõa Lạt đã rút hoàn toàn về phía ngoài Trường Thành, kết thúc cuộc bao vây kinh thành Bắc Kinh.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Lược đồ chiến dịch Thổ Mộc bảo **Trận bảo vệ kinh sư**, còn gọi là **Trận bảo vệ Bắc Kinh**, diễn ra vào tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449) dưới thời Minh Anh
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Bắc Nguyên** (, tiếng Mông Cổ: , _Umardu Yuwan Ulus_) là vương triều do Bột Nhi Chỉ Cân của người Mông Cổ cai trị vùng Đại Mông Cổ. Nhà Bắc Nguyên khởi đầu bằng việc
**Sự biến Thổ Mộc bảo**, còn được gọi là **Sự biến Thổ Mộc** hay **Sự biến năm Kỷ Tỵ**, là một cuộc chiến trong lịch sử Trung Quốc xảy ra vào ngày 1 tháng 9
Lễ hội [[Đồng Kỵ|làng Đồng Kỵ 2009]] Danh sách này liệt kê các lễ hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 547 lễ hội
**Trận Agincourt** (; ) là một trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm Năm giữa Anh với Pháp. Trận đánh diễn ra ngày 25 tháng 10 năm 1415 (Ngày Thánh Crispin) gần Azincourt, ở
**Sự biến Tào Thạch** (chữ Hán: 曹石之變, _Tào Thạch chi biến_) là một sự kiện diễn ra dưới triều vua Minh Anh Tông. Do công phò lập giúp giành lại ngôi vua từ tay người
**Trần Xá** (chữ Hán là 陳舍), là tên của nhiều làng xã Việt Nam, đa số phân bố từ Bắc Trung Bộ ra phía Bắc. Nổi bật trong các làng Trần Xá đó là làng
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Vương Chấn** (chữ Hán: 王振; ?-1449) là hoạn quan, đại thần nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính trường nhà Minh trong những năm đầu thời Minh Anh Tông và
**Huyết án Ngọ môn nhà Minh** () là một sự kiện xảy ra vào ngày 12 tháng 9 năm 1449 (ngày 26 tháng 8 năm Chính Thống thứ 14 dưới triều Minh Anh Tông) tại
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Dã Tiên** (tiếng Mông Cổ: ; chữ Kirin: Эсэн тайш; chuyển tự Latin: _Esen Taishi_; chữ Hán: 也先; ? – 1455) là một khả hãn, chính khách và danh tướng của nhà Bắc Nguyên tại
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Nguyễn An** (chữ Hán: 阮安, ?-1453), còn gọi là **A Lưu** (chữ Hán: 阿留), là một kiến trúc sư người Việt đầu thế kỷ 15. Một số nguồn tin cho rằng ông là một trong
phải|Cột đá đánh dấu khởi điểm của loạn Ứng Nhân **** là cuộc nội chiến từ năm 1467 đến năm 1477 thuộc thời kỳ Muromachi ở Nhật Bản. Nguyên cơ là cuộc tranh chấp giữa
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Thoát Thoát Bất Hoa** (hay Toghtoa Bukha, Toγtoγa Buqa; tiếng Mông Cổ hiện đại: Taisun haan) (1416 - 1453) là một Khả hãn của triều đại Bắc Nguyên tại Mông Cổ. Ông được tôn làm
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Trương Phụ** (tiếng Trung: 張輔, 1375 – 1449), tự Văn Bật (文弼), là một tướng lĩnh, đại thần của nhà Minh từ đời Minh Thành Tổ Chu Đệ đến đời Minh Anh Tông Chu Kì
nhỏ|Mũ _Dực Thiện Quan_ đan từ sợi vàng của [[Minh Thần Tông|Vạn Lịch Đế, mô phỏng từ bản gốc khai quật từ Định lăng. Theo truyền thống nhà Minh, _Dực Thiện Quan_ màu vàng chỉ
Miếu thờ Vu Khiêm ở [[Hàng Châu]] **Vu Khiêm** (tiếng Trung: 于謙, 1398-1457) là một vị đại quan của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông làm quan tới thiếu bảo nên còn gọi
**Konstantinos XI Palaiologos**, Latinh hóa là **Palaeologus** ( (Serbia: _Константин Палеолог Драгаш_), _Kōnstantinos XI Dragasēs Palaiologos_; 1404 - 1453) là vị Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Byzantine (đôi lúc còn được xem là
**Nội Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: Hình:Oburmonggul.svg, _Öbür Monggol_; ), tên chính thức là **Khu tự trị Nội Mông Cổ,** thường được gọi tắt là **Nội Mông**, là một khu tự trị của Cộng hòa
**Cố Hưng Tổ** (chữ Hán: 顧興祖) là một tướng lĩnh quân sự Trung Quốc thời nhà Minh, từng tham gia chiến dịch xâm lược Đại Việt vào thế kỷ 15. ## Thân thế Cố Hưng
**Maha Kali** (Phạn văn: महा काली, chữ Hán: 摩訶貴來 / **Ma-kha Quý-lai**, ? - 1452) là tước hiệu của một quốc vương Champa, trị vì trong các giai đoạn 1441 - 1442 và 1446 -
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
phải|Tấm bản đồ thế giới này được một số người coi là sao chép lại công trình do Trịnh Hòa thực hiện. Niên đại khoa học của nó sẽ được hoàn thành trong năm 2006
**Maha Kaya** (Phạn văn: महा काय, chữ Hán: 摩訶貴由 / **Ma-kha Quý-do**, 摩訶賁田 / **Ma-kha Bí-điền**; ? - 1458) là tước hiệu của một quốc vương Champa, trị vì trong giai đoạn 1449 - 1458.
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Vương Thông** (tiếng Trung: 王通, ? - 1452) là một tướng nhà Minh từng là Tổng binh quân Minh tại Đại Việt. ## Sự nghiệp ban đầu Vương Thông người Hàm Ninh, tỉnh Hồ Bắc,
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Montivilliers** là một xã thuộc bộ phận Seine-Hàng hải ở vùng Normandy ở miền bắc nước Pháp. ## Địa lý **Montivilliers là** một thị trấn công nghiệp và nông nghiệp lớn bên bờ sông Lézarde
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
**Gia Lâm** là một huyện cũ ngoại thành nằm ở phía đông thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Gia Lâm nằm ở phía đông ngoại thành của thủ đô Hà Nội,
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
**Thiếp Mộc Nhi** ( _Timūr_, tiếng Sát Hợp Đài: **', , chữ Hán: 帖木兒; 8 tháng 4 năm 1336— 18 tháng 2 năm 1405), còn được biết đến trong sử sách với tên gọi **Tamerlane_'
**Abū Sulaymān Khālid ibn al-Walīd ibn al-Mughīrah al-Makhzūmī** (‎; 585–642), còn được người đời tôn sùng là **Sayf Allāh al-Maslūl** (; _Lưỡi gươm của Allah_), là người bạn đồng hành của Môhamet và là một
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
Giao thông và liên lạc tại Việt Nam thời Quân chủ Việt Nam không được quan tâm nhiều và phát triển chậm, chủ yếu do những hạn chế và yếu kém về kỹ thuật. Về
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Niên biểu Nội Các đại thần nhà Minh** bao gồm tất cả thành viên Nội Các nhà Minh bắt đầu từ năm Hồng Vũ thứ 35 (1402) kéo dài đến năm Sùng Trinh thứ 17
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1471** là cuộc chiến do vua Lê Thánh Tông của Đại Việt phát động vào năm 1471 nhằm chống lại vương quốc Chiêm Thành ở phương Nam. Quân đội Đại