✨Chiến dịch Krym (1944)

Chiến dịch Krym (1944)

Chiến dịch Krym hay theo cách gọi của người Đức là Trận bán đảo Krym, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng Krym - một bán đảo thuộc Liên bang Xô Viết. Từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 12 tháng 5 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 4, Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải và Hạm đội Biển Đen thuộc Hồng Quân Liên Xô đã tấn công và đánh tan Tập đoàn quân 17 thuộc Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) cùng một số sư đoàn România, đồng minh của Đức Quốc xã.

Chiến dịch được diễn ra theo 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ ngày 8 đến ngày 13 tháng 4, Phương diện quân Ukraina 4 đột phá vào tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân 17 tại eo đất Perekop và vịnh lầy Sivash. Đồng thời, Tập đoàn quân độc lập Duyên hải (đã đổ bộ lên Kerch - Eltigen từ tháng 12 năm 1943) mở cuộc tấn công vào tuyến phòng thủ của Quân đoàn bộ binh 5 (Đức) tại Adzhiban (???) và Lũy Thổ Nhĩ Kỳ. Kết thúc giai đoạn 1, Phương diện quân Ukraina 4 giải phóng phần Bắc bán đảo Krym. Tập đoàn quân độc lập Duyên hải đánh chiếm Feodosiya, Vladislavovka và Ak Monai (Kamyanske), tiến ra hội quân với Phương diện quân Ukraina 4 ở Krasubazar (???). Sau khi hợp nhất lực lượng, Phương diện quân Ukraina 4 và Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải tiếp tục tiến đánh Simferopol, trung tâm bán đảo Krym và Eupatoria, hải cảng phía Bắc Sevastopol. Giai đoạn 2 từ ngày 14 tháng 4 đến 9 tháng 5, các tập đoàn quân Liên Xô đánh tan các cụm phòng ngự của quân Đức tại Simferopol, Eupatoria và bao vây Sevastopol. Giai đoạn 3 từ ngày 5 đến 12 tháng 5, Quân đội Liên Xô tiêu diệt cụm quân Đức - Romania phòng thủ Sevastopol, giải phóng thành phố. Các đội du kích Liên Xô hoạt động tại Krym đã giúp đỡ quân chủ lực Liên Xô bảo vệ những mục tiêu quan trọng tránh khỏi sự phá hoại của quân đội Đức Quốc xã. Lấy lại được bán đảo Krym, Quân đội Liên Xô gần như hoàn thành việc giải phóng Ukraina. Hải quân Liên Xô thu hồi một quân cảng quan trọng trên Biển Đen.

Sau chiến dịch, Tập đoàn quân 17 (Đức) chỉ còn lại bộ khung, được rút khỏi Krym bằng đường không. Sau khi được trang bị lại với quân số hoàn toàn mới, ngày 25 tháng 7, tập đoàn quân này được biên chế cho Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina. Phương diện quân Ukraina 4 được giải thể, bộ khung cán bộ và quân số của nó được chuyển về hướng Trung tâm mặt trận Xô-Đức để thành lập Phương diện quân Byelorussia 2 và tham gia Chiến dịch Bagration. Tại Đông Âu, các đối thủ cũ lại gặp nhau một lần nữa.

Bối cảnh và tình huống mặt trận

Từ cuối năm 1943 đến đầu năm 1944, quân đội Đức Quốc xã xây dựng một tiền tuyến ở phía đông. Krym được coi là tiền đồn phía Nam của phòng tuyến Wotan. Tháng 10 năm 1943, Tập đoàn quân 17 (Đức) đã buộc phải rút lui khỏi thảo nguyên Kuban qua eo biển Kerch-Taman. Cuối năm 1943, Hồng quân đẩy lùi Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) khỏi miền nam Ukraina. Tháng 11 năm 1943, Phương diện quân Ukraina 4 (Liên Xô) hoàn thành Chiến dịch tấn công Nikopol-Krivoi Rog, tiến đến bờ Đông sông Dniepr, chia cắt và cô lập Tập đoàn quân 17 (Đức), chiếm giữ cửa ngõ vào Krym tại eo đất Perekop.

Krym là một bán đảo khá biệt lập với lục địa châu Âu, chỉ nối với đất liền bằng eo đất Perekop với các vịnh lầy trải dài từ Perekop đến Genichesk và dọc theo bờ biển Azov đến tận Ak Monai. Sự biệt lập này làm cho Krym trở thành một vùng đất dễ phòng thủ nhưng cũng dễ dàng trở thành một "cái túi tác chiến" nguy hiểm với bốn bề là biển. Krym có một bán đảo nhỏ Kerch ở phía Đông, ngăn cách với bán đảo Taman của vùng Bắc Kavkaz qua một eo biển hẹp nối biển Azov với Biển Đen. Địa hình Krym có nhiều núi cao. Các khe hẻm cùng một số con sông ngắn, nhỏ nhưng sâu chia cắt. Lợi dụng các yếu tố địa hình này, các đạo quân từng chiếm đóng Krym đã cho xây dựng nhiều công trình quân sự kiên cố mà đáng kể nhất là Lũy Thổ Nhĩ Kỳ ở phía Đông bán đảo Kerch, mỏ đá Ak Monai và hàng chục pháo đài kiên cố ở Sevastopol, Eupatoria, Feodosiya, Kerch, Eltigen, Dzhankoi và Simferopol, trung tâm của bán đảo.

Bán đảo Krym có một vị trí quân sự rất quan trọng về hàng hải. Từ Krym, có thể kiểm soát toàn bộ vùng phía Bắc Biển Đen và phát huy sức mạnh của không quân và hải quân đến các vùng đất ven bờ biển từ Romania đến Gruzia. Ngoài tầm quan trọng về hàng hải quân sự, Krym còn có vai trò rất quan trọng về kinh tế: các nhà máy luyện quặng ở Kerch, Sevastopol, các nhà máy công nghiệp chế biến thực phẩm, các căn cứ hậu cần nghề cá, các khu vực trồng ngũ cốc, các trang trại trồng nho, các nhà điều dưỡng ở bờ biển phía Nam. Trong thời gian chiếm đóng, Krym là nơi nghỉ dưỡng của các thống chế, tướng lĩnh và các quan chức cao cấp của nước Đức Quốc xã.

Binh lực và kế hoạch

Quân đội Liên Xô

Binh lực

Tháng 3 năm 1944, Quân đội Liên Xô có triển khai hai cánh quân bộ và Phân hạm đội Bắc Biển Đen tấn công vào Krym. Cánh quân chủ lực do Phương diện quân Ukraina 4 đảm nhận. Cánh quân bổ trợ do Tập đoàn quân độc lập Duyên hải đảm nhận. Hạm đội Biển Đen dành 1/3 lực lượng yểm hộ Tập đoàn quân độc lập Duyên hải, 1/3 lực lượng yểm hộ Phương diện quân Ukraina 4, 1/3 lực lượng còn lại (chủ yếu là tàu khu trực và tàu ngầm) và Phân Hạm đội Danube làm nhiệm vụ phong tỏa đường biển.

Phương diện quân Ukraina 4 do Thượng tướng F. I. Tolbukhin làm tư lệnh. Thành phần gồm có: Tập đoàn quân cận vệ 2 do trung tướng G. F. Zakharov chỉ huy. Biên chế gồm có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 13 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, 24, 87. Quân đoàn bộ binh 54 gồm các sư đoàn bộ binh 126, 315, 387. Quân đoàn bộ binh 55 gồm các sư đoàn bộ binh 87, 347 Lực lượng pháo binh có Sư đoàn pháo binh cận vệ 2, các trung đoàn pháo binh 1095, 1101, các trung đoàn pháo cơ giới 315, 317, 331, các trung đoàn pháo chống tăng 14, 113 (cận vệ), 1250, các trung đoàn súng cối 133 (cận vệ), 483, Sư đoàn phòng không 76, các trung đoàn phòng không 591, 1530. Lực lượng thiết giáp có Trung đoàn pháo tự hành 1452, tiểu đoàn trinh sát cơ giới 512. Lực lượng công binh có Lữ đoàn công binh cầu phà 43, các tiểu đoàn công binh công trình 258, 335. Tập đoàn quân 51 do trung tướng Ya. G. Kreizer chỉ huy. Biên chế gồm có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 1 gồm các sư đoàn bộ binh 33 (cận vệ), 91, 346. Quân đoàn bộ binh 10 gồm các sư đoàn bộ binh 216, 257, 270. Quân đoàn bộ binh 63 gồm các sư đoàn bộ binh 263, 267, 417. Sư đoàn bộ binh 77 (trực thuộc) Lực lượng pháo binh có Sư đoàn pháo binh 26, Lữ đoàn pháo binh cận vệ 6, Lữ đoàn Katyusha 105, các trung đoàn pháo binh 647, 1105, Lữ đoàn pháo binh cơ giới cận vệ 5, các trung đoàn pháo chống tăng 5 (cận vệ), 15, 21, các trung đoàn pháo chống tăng 764, 1246, Lữ đoàn súng cối 19, Trung đoàn súng cối 125, các sư đoàn phòng không 2, 15, 18, Trung đoàn phòng không cận vệ 77. Lực lượng thiết giáp có Lữ đoàn xe tăng cận vệ 32, Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 22, các tiểu đoàn pháo tự hành 30, 33. *Lực lượng công binh có Lữ đoàn cầu 12, Lữ đoàn phà 63, các tiểu đoàn dò phá mìn 5 (cận vệ) 1504, tiểu đoàn công binh công trình 275. Quân đoàn xe tăng 19 của thiếu tướng Ivan Dmitryevich Vassiliev gồm các lữ đoàn xe tăng 79, 101, 202; Lữ đoàn cơ giới 26; các trung đoàn pháo tự hành 768, 875; Tiểu đoàn bộ binh mô tô 91, Trung đoàn pháo chống tăng 1511, Trung đoàn súng cối 179, Trung đoàn phòng không 1717. Tập đoàn quân không quân 8 của thượng tướng T. T. Khryukin gồm 1 sư đoàn tiêm kích, 1 sư đoàn cường kích, 3 sư đoàn ném bom ban ngày, 1 sư đoàn ném bom ban đêm, 2 trung đoàn cường kích (độc lập), 1 trung đoàn ném bom ban đêm (độc lập), 1 trung đoàn vận tải, 1 trung đoàn trinh sát, 1 trung đoàn liên lạc, cứu hộ. Các đơn vị dự bị của phương diện quân Lực lượng thiết giáp có Lữ đoàn xe tăng cận vệ 6, Tiểu đoàn bộ binh mô tô 52, Tiểu đoàn trinh sát cơ giới cận vệ 5, các trung đoàn xe lửa bọc thép 46, 54. Lực lượng pháo binh có Sư đoàn súng cối cận vệ 4, Lữ đoàn pháo chống tăng 35, Trung đoàn pháo binh 530, các trung đoàn súng cối cận vệ 2, 4, 19, 21, 23, 67; Trung đoàn phòng không cận vệ 270; các trung đoàn phòng không 1069, 1485. **Lực lượng công binh có Lữ đoàn công binh 7 (phà), Lữ đoàn công binh 2 (cầu), các tiểu đoàn công binh công trình 3 (cận vệ), 65, 240, Tiểu đoàn công binh rà phá mìn cận vệ 17, Tiểu đoàn công binh cơ giới 105.

Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải do thượng tướng I. E. Petrov chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 128, Sư đoàn bộ binh sơn chiến 242 và sư đoàn bộ binh 318. Quân đoàn bộ binh cận vệ 11 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 2, 32; Sư đoàn bộ binh 414; Lữ đoàn bộ binh cơ giới 83. Quân đoàn bộ binh 16 gồm các sư đoàn bộ binh 339, 383; Sư đoàn bộ binh cơ giới 255. Quân đoàn bộ binh 20 gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 55, Sư đoàn bộ binh sơn chiến 20, các sư đoàn bộ binh 79, 227. Lực lượng thiết giáp có Lữ đoàn xe tăng 63; các trung đoàn xe tăng hạng nhẹ 85, 244, 257; Trung đoàn pháo tự hành 1449. Lực lượng pháo binh có Lữ đoàn pháo binh 62, Lữ đoàn Katyusha cận vệ 98, các trung đoàn pháo binh 4 (cận vệ), 268, 1169; Trung đoàn sơn pháo 81; Lữ đoàn pháo chống tăng 16, các trung đoàn pháo chống tăng 34, 1174; Lữ đoàn súng cối 29, các trung đoàn súng cối 195, 197, Lữ đoàn pháo bờ biển cận vệ 1, các trung đoàn pháo bờ biển 8, 44, 49, 50; Sư đoàn phòng không 19; các trung đoàn phòng không 210, 272 (cận vệ), 257, 763, 1260, các tiểu đoàn súng máy cao xạ 17, 21, 30, 179, 504, 508, 540. Lực lượng công binh có Lữ đoàn công binh cầu phà 13, các tiểu đoàn công binh công trình 8, 9, 97; Tiểu đoàn công binh rà phá mìn cận vệ 15; các tiểu đoàn công binh cơ giới 19, 54. Lực lượng đặc biệt có các tiểu đoàn súng phun lửa 26, 179, 180.

Hạm đội Biển Đen do Đô đốc Phillip Sergeyevich Oktyabrsky chỉ huy, sử dụng các căn cứ Novorossiysk, Temryuk, Taganrog và Phân hạm đội Danube tham gia chiến dịch. Thành phần gồm có: *Phân hạm đội Bắc Biển Đen do Phó đô đốc Nikolay Efremovich Basityi, tham mưu trưởng hạm đội chỉ huy. Biên chế gồm có:

Phương án ban đầu của Phương diện quân Ukraina 4 do A. M. Vasilevsky và F. I. Tolbukhin đề xuất là không sử dụng quân đổ bộ lên Kerch. Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải được chuyển cho Phương diện quân Ukraina 4, di chuyển đến eo đất Perekop cùng với Phương diện quân Ukraina 4 tổng tấn công vào Krym từ phía Bắc. Trong phương án cũng dự kiến sử dụng quân dù đổ bộ đường không Dzhankoy và Hạm đội Biển Đen dùng hải quân đánh bộ tấn công bổ trợ từ Feodosiya. Bộ Tổng tham mưu Liên Xô xét thấy phương án này có ưu điểm là tập trung được nhiều binh lực trên hướng đột kích đã chọn, tạo ưu thế khi tấn công. Nhưng họ cũng cho rằng nó có nhược điểm không nhỏ là đòi hỏi nhiều đợt chuyển quân lớn, khó giữ được bí mật. Nếu chỉ có một hướng tấn công từ Perekop, hướng Kerch trở nên thụ động, Tập đoàn quân 17 (Đức) sẽ rút bớt quân ở hướng Kerch để tăng cường cho hướng Perekop.

Gọi là eo đất Perekop nhưng thực ra chỉ có hai con đường trên bộ vào Krym là đủ điều kiện cho các phương tiện cơ giới di chuyển. Một là con đường bộ từ Perekop qua Armyansk vào Ishun. Từ ngã tư Ishun có các tuyến đường đi Eupatoria ở phía Tây, Dzhankoy ở phía Đông và Simferopol, trung tâm của Krym. Tập đoàn quân cận vệ 2 của trung tướng G. F. Zakharov được giao nhiệm vụ tấn công trên hướng này. Thứ hai là con đường sắt vào Krym, từ NovoAlekseyevka qua Chongar đi Dzhankoy là tuyến hẹp, phải vượt vịnh Sivash trên cây cầu đường sắt phía Nam Chongar.

Pháo binh của Phương diện quân Ukraina 4 được huy động tập trung ở mật độ cao cho các mũi tấn công, tạo ưu thế áp đảo về hỏa lực pháo binh từ 4 đến 5 lần so với pháo binh Đức. Tại hướng đánh của Tập đoàn quân cận vệ 2 đã tạo được mật độ 150 pháo và cối trên 1 km chính diện. Con số này ở hướng của Tập đoàn quân 51 là 151 khẩu và ở Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải là 162 khẩu. Các Tập đoàn quân đã tích lũy được 4 cơ số đạn dược chiến đấu và 4 cơ số dự phòng, 5 cơ số nhiên liệu và 18 cơ số lương thực, thực phẩm.

*Quân đoàn bộ binh 5 của tướng Karl Allmendinger và tướng Friedrich-Wilhelm Müller (từ 4 tháng 5 năm 1944). Trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 50 của tướng Paul Betz gồm các trung đoàn bộ binh 121, 122, 123; Trung đoàn pháo binh 50; Tiểu đoàn xe tăng 150, 1 trung đoàn pháo chống tăng; các tiểu đoàn bộ binh cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 98 của tướng Alfred-Hermann Reinhardt gồm các trung đoàn bộ binh 117, 289, 290; Trung đoàn pháo binh 98; Tiểu đoàn xe tăng 198, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 2 tiểu đoàn bộ binh cơ giới, các tiểu đoàn trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 19 (Romania) *Quân đoàn bộ binh sơn chiến 49 của tướng Rudolf Konrad. Trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 336 của tướng Wolf Hagemann gồm các trung đoàn bộ binh 685, 686, 687; Trung đoàn pháo binh 336, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 tiểu đoàn bộ binh cơ giới, các tiểu đoàn trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 370 của tướng Fritz Becker gồm các trung đoàn bộ binh 666, 667, 668; Trung đoàn pháo binh 370, 1 tiểu đoàn pháo chống tăng, 1 tiểu đoàn pháo tự hành, 2 tiểu đoàn bộ binh cơ giới, các tiểu đoàn trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 10 (Romania) Cụm tác chiến Krieger *Cụm tác chiến Brüder. ''Quân đoàn bộ binh sơn chiến 1 (Romania) Sư đoàn bộ binh sơn chiến 1 (Romania) Sư đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Romania) Sư đoàn kỵ binh 6 (Romania) Không quân: Một phần Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) Căn cứ không quân Simferopol: khoảng 120 máy bay Căn cứ không quân Sevastopol: khoảng 180 máy bay Hải quân: 19 tàu nổi, 2 tàu ngầm. Căn cứ Sevastopol. Căn cứ Eupatoria. **Căn cứ Feodosiya.

Kế hoạch phòng thủ

Tướng Erwin Jaenecke chia quân phòng thủ Krym làm ba cánh chủ yếu gồm 18 cụm phòng thủ:

Hướng thứ yếu

Để ngăn cản Phương diện quân Ukraina 4 tiến công về phía Nam bán đảo, tướng Erwin Jaenecke buộc phải rút bớt quân của Quân đoàn bộ binh 5 (Đức) từ hướng Kerch sang tăng cường cho Quân đoàn bộ binh sơn chiến 49 và điều bớt một sư đoàn Romania sang hướng Kerch. Sư đoàn bộ binh 50 để lại Trung đoàn 121 rút về Lũy Thổ Nhĩ Kỳ, lấy thị trấn Bak (???) là trung tâm phòng ngự. Sư đoàn bộ binh 98 để lại Trung đoàn bộ binh 289 phòng thủ sau lưng Sư đoàn bộ binh 50. Sư đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Romania) được điều ra phòng thủ khu vực mỏ đá Ak Monai. Sư đoàn bộ binh 6 (Romania) thay Trung đoàn bộ binh 290 phòng thủ Feodosiya.

Phát hiện quân Đức có triệu chứng rút lui qua tin tức trinh sát, ngày 10 tháng 4, tướng A. I. Yeryomanko yêu cầu Tập đoàn quân không quân 4 tổ chức đánh chặn. Hơn 100 máy bay cường kích và 46 máy bay ném bom được 63 máy bay tiêm kích yểm hộ đã không kích quân Đức trên con đường sắt từ Kerch đi Vladislavovka. Không quân của hạm đội Biển Đen cũng ném bom Feodosiya. Được phổ biến kế hoạch tấn công ban đêm của Tập đoàn độc lập Duyên Hải, Tập đoàn quân không quân 4 cũng chuẩn bị 14 máy bay cường kích bay đêm và 20 máy bay ném bom ban đêm để trợ chiến.

Chiều ngày 10 tháng 4, pháo binh Đức tổ chức bắn phá phòng tuyến của Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải ở phía Tây Kerch suốt hơn 1 giờ để cản đường truy kích của quân đội Liên Xô. Quân Đức cũng thả khói mù để che giấu các hoạt động chuyển quân. Không cho quân Đức yên ổn rút lui, 22 giờ đêm 10 tháng 4, Quân đoàn bộ binh cận vệ 11 phát động tấn công. 4 giờ sáng ngày 11 tháng 4, quân đoàn này đã chiếm được Bak, trung tâm phòng ngự tiền tiêu của quân Đức ở phía Đông Kerch và các thị trấn Kara Sedzheyt (???), Adzhi Mandy (???), Kary (???), Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 cũng đánh chiếm điểm cao Salyk (???), nhà ga Staryi Tashly và các thị trấn Aska Beshkii (???), Novo Sheveteevka (???). Riêng quân đoàn bộ binh 16 đến sáng 11 tháng 4 vẫn chưa vượt qua qua được Lũy Thổ Nhĩ Kỳ vì hai tiểu đoàn bộ binh cơ giới Đức chốt chặn tại khe núi Mitridat. Quân đoàn bộ binh cận vệ 11 (Liên Xô) đã điều Lữ đoàn bộ binh cơ giới 83 từ Katerlez (???) sang phối hợp, đánh bật hai tiểu đoàn bộ binh cơ giới Đức khỏi khe núi Mitridat, mở đường vượt qua Uchevan Kengez (???) cho Quân đoàn 16, đánh chiếm các làng Adzhabay (???), Mardyuvka (???), Maryvka. Đến cuối ngày 11 tháng 4, quân đội Liên Xô đã hoàn toàn làm chủ tuyến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ. Các trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 50 (Đức) phải rút về tuyến phòng thủ thứ hai.

Trong các ngày từ 12 đến 14 tháng 4, trừ Quân đoàn bộ binh 20, lực lượng dự bị còn chưa tham chiến, các quân đoàn của Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải đã liên tục tập kích vào các trung đoàn Đức đang từ từ rút khỏi Kerch. Trong khi đó, các lực lượng Romania luôn được lệnh phải ở lại để cản hậu. Ngày 12 tháng 4, Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Liên Xô) với sự yểm hộ của các trung đoàn xe tăng 85 và 244 đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Romania) ở mỏ đá Ak Monai và chiếm lĩnh các chốt phòng thủ. Tàn quân Romania bỏ chạy về Simferopol. Ngày 13 tháng 4, Quân đoàn bộ binh 11 đột phá qua phòng tuyến của Sư đoàn bộ binh 98 (Đức), đánh chiếm Vladislavovka và tiếp tục truy kích quân Đức theo hướng Karasubazar, Zuya, Sabre (???), Manchuk (???). Ngày 14 tháng 4, Quân đoàn này đã đánh chiếm một loạt các vị trí phòng thủ của Quân đoàn sơn chiến 3 (Đức). Cụm xe tăng-cơ giới được giao nhiệm vụ nhanh chóng tiến công theo hướng Sultan Saray (Ulyanovka), Bayuk-Yankoi (???), Yanka (???), Foti-Sala (???), Beshuy (???), và Gora Chernaya. Quân đoàn bộ binh 16 và Lữ đoàn xe tăng 63 tấn công trực diện vào Feodosiya và đánh chiếm thành phố này ngày 13 tháng 4. Ngày 14 tháng 4, quân đoàn tiếp tục tấn công về Sudak và đến ngày 14 tháng 4 đã chiếm được Zanov (???) và Gurzuv (???). Quân đội Đức Quốc xã tập trung các tiểu đoàn xe tăng 33, 37 và Sư đoàn kỵ binh 3 (Romania) phòng thủ vòng tròn chặn được đòn tấn công của Quân đoàn bộ binh 16 (Liên Xô) ở Sudak. Ngày 15 tháng 4, Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải đã đánh chiếm toàn bộ bán đảo Kerch.

Giai đoạn 2: Tổng công kích

Ngày 15 tháng 3 năm 1944, Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải) đã hội quân với Quân đoàn bộ binh 62 (Tập đoàn quân 51) ở ngoại vi Karasubaza. Cuộc tổng công kích của Quân đội Liên Xô vào Tập đoàn quân 17 (Đức) ở Tây Nam bán đảo Krym bắt đầu ngay từ sáng 16 tháng 4 mà không cần có thời gian tạm dừng chiến dịch. Quân Đức và Romania rút về Yalta, lên các sà lan và tàu kéo để tháo chạy về Yalta nhưng không thoát. Pháo binh của Quân đoàn 16 đã đánh chìm 1 sà lan chở 200 lính Đức và Romania. Không quân hạm đội Biển Đen và Tập đoàn không quân 4 đánh chìm 2 chiếc khác. Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 4, Quân đoàn bộ binh 16 (Liên Xô) dập tắt những ổ kháng cự cuối cùng của quân Đức tại Yalta.

Không thể trông chờ ở quân Romania, tướng Erwin Jaenecke đặt hy vọng vào tuyến phòng thủ ở phía Bắc và phía Tây Simferopol như một tiền đồn phòng ngự từ xa cho Sevastopol. Tuy nhiên, sự thất thủ nhanh chóng của quân Romania tại Yalta không những đặt cụm cứ điểm Simferopol của 2 sư đoàn bộ binh (Đức) và Sư đoàn sơn chiến 1 (Romania) vào tình thế bị vây từ ba phía mà còn để hở một hướng tấn công thứ hai vào Sevastopol từ ven biển phía Nam bán đảo. Trên hướng Tây Bắc, Tập đoàn quân cận vệ 2 (Liên Xô) cũng bắt đầu công kích và vây ép Cụm tác chiến Krieger tại Evapatorya. Ngày 16 tháng 4, Quân đoàn bộ binh 10 (Tập đoàn quân 51) và Lữ đoàn xe tăng 79 đánh chiếm cứ điểm Bakhchisarai do Sư đoàn bộ binh 370 (Đức) đóng giữ, mở cửa đột phá vào Simferopol từ phía Bắc. Ngày 14 tháng 4, Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Tập đoàn quân Duyên Hải) đánh chiếm các điểm cao Mamak (???), Bitak (???) (Đông Nam Simferopol), đánh bật sư đoàn bộ binh 98 (Đức) khỏi con đèo Chatyr Dag và tràn xuống thung lũng Angara và chỉ còn cách Simferopol 12 km. Để thoát khỏi nguy cơ bị tiêu diệt, tướng Rudolf Konrad và các tướng Wolf Hagemann, Fritz Becker đều thống nhất chủ trương rút bỏ Simferopol để tập trung binh lực giữ lấy hai căn cứ chính là Sevastopol và Eupatoria. Ngày 18 tháng 4, quân Đức và Romania bắt đầu rút lui.

Giai đoạn 3: Giải phóng Sevastopol

Đầu tháng 5 năm 1944, tướng Karl Allmendinger chỉ còn lại trong tay 5 sư đoàn Đức và 3 sư đoàn Romania để phòng thủ Sevastopol, trong đó có hai sư đoàn bộ binh 3, 73 (Đức) và Sư đoàn sơn chiến 2 (Romania) được đưa từ Cụm quân Balkan đến bằng đường biển để tăng viện cho Cụm tác chiến Brüder. Sau khi 6 sư đoàn Đức và Romania đã bị đánh tan trong các trận chiến cuối tháng 4 năm 1944, Tập đoàn quân 17 (Đức) còn lại 72.000 sĩ quan và binh lính, 50 xe tăng và pháo tự hành, 1.500 pháo và súng cối, 330 súng chống tăng và gần 100 máy bay. Các lực lượng Đức và Romania bố trí phòng thủ Sevastopol thành một vòng cung ở phía Đông dựa theo địa hình, các điểm cao và các công trình phòng thủ mà quân đội Liên Xô đã bố trí trong Chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942). Phía Đông Bắc Sevastopol có Sư đoàn bộ binh 50 (Đức) và Sư đoàn bộ binh sơn chiến 2 (Romania). Các trung tâm phòng ngự mạnh được bố trí tại Lyubimovka, Markenzyevyi (???) và điểm cao 190. Phía Đông có các sư đoàn bộ binh 98 và 336 (Đức), các sư đoàn sơn chiến 1 và 3 (Romania). Các trung tâm phòng ngự được bố trí ở Markenzia (???), Sakharnaya, Inkerman và điểm cao 169. Quanh điểm cao chiến lược Sapun Gora có 6 lớp hào chống tăng và các tuyến hàng rào chống bộ binh. Hướng Đông Nam có các sư đoàn bộ binh 3 và 73 (Đức). Các trung tâm phòng ngự được bố trí ở núi Sapun Gora, điểm cao 231, Dzhanshyev (???) và Karan (???). Lữ đoàn cảnh binh SS và Trung đoàn còn lại của Sư đoàn kỵ binh 6 (Romania) phòng thủ trong nội đô Sevastopol.

Ngày 9 tháng 5, các tập đoàn quân 51 và cận vệ 2 mở cuộc tổng công kích vào nội đô Sevastopol. Sau hơn nửa giờ pháo kích của 600 khẩu pháo đặt tai phía Bắc vịnh Chernaya, Quân đoàn bộ binh 55 đã đột nhập vào phía Nam vịnh và nhanh chóng phối hợp với Sư đoàn 10 hải quân đánh bộ đánh chiếm cảng Sevastopol. Phía Đông Nam thành phố, Quân đoàn bộ binh cận vệ 1 cũng xâm nhập Sevastopol từ hướng Turovka (???). Chiều ngày 9 tháng 5, quân đội Liên Xô hoàn toàn làm chủ Sevastopol. Đêm 9 tháng 5, Moskva bắn đại bác cấp 2 với 224 loạt chào mừng Phương diện quân Ukraina 4 giải phóng Sevastopol.

Theo Rolf-Dieter Müller thiệt hại của quân Đức là 31.700 chết và mất tích, khoảng 33.400 người bị thương. Quân Romania có 25.800 người chết và mất tích, khoảng 5.800 người bị thương. Tổng số thương vong của cả quân Đức và Romania là 96.700 người.

Theo G. F. Krivosheev, Phương diện quân Ukraina 4 và Tập đoàn quân độc lập Duyên hải có 17.754 người chết, 67.065 người bị thương. 171 xe tăng, 521 khẩu pháo bị bắn hỏng, 179 máy bay bị bắn rơi.

Theo A. N. Grylov, ngoài 35.000 quân Đức và Romania bị chết trong các trận đánh trên bộ, quân Đức và Romania còn mất hơn 42.000 người trong các trận đánh trên biển do chỉ 3 trong số 13 chuyến tàu trọng tải trên 9.000 tấn sơ tán quân từ Krym về Romania đi thoát. 10 chiếc còn lại đều bị các chiến hạm của Hạm đội Biển Đen và không quân của hạm đội đánh đắm. Quân đội Liên Xô bắt 61.587 sĩ quan và binh lính của các Đức Quốc xã và Romania. Riêng tại Mũi Khersonet đã có khoảng 21.000 quân nhân Đức và Romania bị bắt, trong đó cơ hơn 100 sĩ quan cao cấp từ đại tá đến trung tướng.

Bản tường trình số WF-03/5072 (số trang lưu trữ 940-946) ngày 6 tháng 11 năm 1944 của Thiếu tướng Ritter von Xylander, tham mưu trưởng Tập đoàn quân 17 (Đức) cho biết Hải quân Đức đã bỏ lại khoảng 12.000 sĩ quan và binh lính Đức tại mũi Khersones và tất cả số này đều bị quân đội Liên Xô tiêu diệt hoặc bắt làm tù binh. Các tướng lĩnh Đức cũng không thể dự báo được quy mô tập trung binh lực rất lớn của Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải (Liên Xô) trên một căn cứ đầu cầu rất hẹp có chiều rộng không quá 15 km và chiều sâu không quá 8 km, có chỗ chỉ 2 km. Vì vậy, mặc dù thiết lập đến ba tuyến phòng thủ trên bán đảo Kerch, trong đó có tuyến Lũy Thổ Nhĩ Kỳ rất kiên cố nhưng Quân đoàn bộ binh 5 (Đức) vẫn không thể chặn được đà tiến công nhanh chóng của Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải.

Trong chiến dịch, pháo binh Liên Xô được tập trung ở mật độ rất cao và tác xạ kéo dài đến hơn 2 giờ liền trên các hướng tấn công chính đã dập tắt sức kháng cự của cả pháo binh và bộ binh Đức, tạo điều kiện cho xe tăng và bộ binh Liên Xô mở các đột phá khẩu rộng và sâu hơn, nhanh chóng đánh vào trung tâm phòng ngự của các sư đoàn Đức, làm rối loạn việc chỉ huy của đối phương và chia cắt các sư đoàn Đức thành các cụm quân bị cô lập, không còn yểm hộ được cho nhau.

Thất bại của quân Đức tại Krym cũng làm cho ảnh hưởng của nước Đức Quốc xã tại khu vực Biển Đen nhanh chóng "tụt dốc". Thổ Nhĩ Kỳ thẳng thừng phản đối các hành động quân sự chống Liên Xô, tuyên bố cắt đứt quan hệ với nước Đức Quốc xã và trở lại vai trò trung lập. Chính quyền Romania xáo động và chia rẽ, họ tìm cách liên lạc với đồng minh Anh-Mỹ để ngăn cản quân đội Liên Xô tiến vào. Một số quan chức cao cấp trong chính quyền Bulgaria cũng tìm cách liên lạc với phong trào du kích để tìm kiếm sự ủng hộ trong việc thoát khỏi sự ràng buộc của nước Đức Quốc xã.

Chiếm lại Krym, Hải quân Liên Xô có một cụm căn cứ mạnh để hỗ trợ cho các chiến dịch của quân đội Liên Xô tại Romania và Bulgaria cũng như việc chuyển quân đội, vũ khí tiếp viện và hàng hóa bằng đường biển cho các hoạt động quân sự của họ trên bán đảo Balkan. Phân hạm đội Azov được giải phóng khỏi các nhiệm vụ ở Krym đã chuyển thành Giang đội Danube để chuẩn bị cho các hoạt động yểm trợ và vận tải đường thủy cho các chiến dịch của lục quân Liên Xô trên lãnh thổ Romania, Bulgaria, Nam Tư và Hungary trong giai đoạn cuối của cuộc chiến. Sau chiến dịch, Phương diện quân Ukraina 4 được giải thể để thành lập Phương diện quân Byelorrussia 2 (lần thứ hai). Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải được giải thể và sau đó, bộ khung của nó lại được sử dụng để thành lập Phương diện quân Ukraina 4 (lần thứ 2) trên hướng Đông Carpath.

Kết thúc chiến dịch, hàng trăm đơn vị quân đoàn, sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn và hàng nghìn sĩ quan, binh sĩ của Phương diện quân Ukraina 4 và Tập đoàn quân độc lập duyên hải được tặng thưởng các huân huy chương, được mang các danh hiệu Krym, Sevastopol, Simferopol, Eupatoria và Feodosiya.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka** (6 tháng 3 - 18 tháng 3 năm 1944) là một chiến dịch tấn công cấp Phương diện quân thuộc các hoạt động quân sự tại hữu ngạn sông Dniepr
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog** là một trong ba trận hợp vây lớn trong Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr thuộc Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 30 tháng 1 đến 29
**Chiến dịch Mogilev** (23 tháng 6 - 28 tháng 6 năm 1944) là một trận tấn công của quân đội Liên Xô nhằm vào quân đội Đức Quốc xã, diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky** còn được gọi là "Tiểu Stalingrad" hay "Stalingrad trên bờ sông Dniepr" là một chiến dịch lớn trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 24 tháng 1 đến 17
**Chiến dịch Šiauliai** hay **Chiến dịch Shyaulyay** diễn ra từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 29 tháng 8 năm 1944 là một trong các hoạt động quân sự lớn của Hồng quân Liên Xô
**Chiến dịch Vilnius** là đòn phát triển tiếp tục tấn công phát huy chiến quả sau Chiến dịch Minsk của Phương diện quân Byelorussia 3 (Liên Xô) chống lại các lực lượng Đức Quốc xã
**Chiến dịch tấn công Odessa** (26 tháng 3 - 14 tháng 4 năm 1944) là một trong các chiến dịch quân sự cuối cùng giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã
**Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk** là một chiến dịch nhỏ do cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) thực hiện từ ngày 27 tháng 1 đến ngày 11 tháng 2 năm 1944
**Chiến dịch giải phóng Novorossiysk** là cuộc tấn công chiến thuật của Tập đoàn quân 18 và Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 9 năm 1943 để thu
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk** (còn gọi là _Chiến dịch Hạ Dniepr_) là hoạt động quân sự lớn do Phương diện quân Ukraina 4 (Liên Xô) tiến hành chống lại Tập đoàn quân 6 (tái lập)
**Chiến dịch Kerch-Eltigen** là một chiến dịch đổ bộ đường biển do Hồng quân Liên Xô tổ chức, diễn ra trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Khởi sự ngày
**Chiến dịch tấn công Lvov-Sandomierz** () hay **Chiến dịch tấn công chiến lược L'vov-Sandomierz** () là một chiến dịch tấn công của Hồng quân Xô Viết nhằm vào quân đội phát xít Đức đóng tại
**Trục xuất người Tatar Krym** (Tiếng Tatar Krym: _Qırımtatar sürgünligi_; Tiếng Nga: _Депортация крымских татар_; tiếng Ukraina: _Депортація кримських татар_) là một trong những chiến dịch thanh trừng sắc tộc vào năm 1944 ở Liên
thumb|Các khu định cư cổ đại tại Krym và khu vực xung quanh thumb|Đồng xu từ [[Chersonesus biểu thị Artemis, hươu, bò, dùi cui và bao đựng tên ()]] Lịch sử thành văn của bán
thumb|Bản đồ vệ tinh bán đảo Krym tháng 5 năm 2015 **Krym** là một bán đảo tại Đông Âu, trên bờ biển phía bắc biển Đen, bị bao quanh hầu như hoàn toàn bởi biển
Vào tháng 2 và tháng 3 năm 2014, Nga xâm chiếm và sau đó sáp nhập bán đảo Krym từ Ukraina. Sự kiện này diễn ra trong khi có khoảng trống quyền lực tương đối
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
Vị trí của eo đất Perekop. nhỏ|phảo|Hình chụp một đồng cỏ ở phía tây eo đất Perekop. **Eo đất Perekop** (; _Perekops'kyy pereshyyok_; ; _Perekopskiy peresheek_ , ) là một eo đất hẹp nối liền
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Porfiry Chanchibadze** (tiếng Gruzia: პორფილე ჩანჩიბაძე; 13 tháng 12 năm 1901 - 14 tháng 3 năm 1950) hay **Porfiry Georgyevich Chanchibadze** (tiếng Nga: Порфи́рий Гео́ргиевич Чанчиба́дзе) là một Thượng tướng quân đội Liên Xô và
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1941. ## Tháng 1 năm 1941 :1: Thống kê từ cuộc ném bom Luân
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky** (tiếng Nga: _Алекса́ндр Миха́йлович Василе́вский_) (1895-1977) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng, từ năm 1943 là Nguyên soái Liên bang Xô viết. Ông là Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân
**Phương diện quân Ukraina 4** (tiếng Nga: _4-й Украинский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, chịu trách nhiệm phối hợp và chỉ
Việc chuyển giao tỉnh Krym trong nội bộ Liên Xô năm 1954 là một hành động hành chính của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao nhằm chuyển giao chính quyền của Krym từ Cộng
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
Đế quốc Nga sáp nhập lãnh thổ từng do Hãn quốc Krym kiểm soát vào ngày . Giai đoạn trước khi sáp nhập có dấu ấn là việc Nga can thiệp nội vụ Krym, một
**Sư đoàn bộ binh ô tô Cận vệ số 2 "Taman", Huân chương Cách mạng Tháng Mười, Huân chương Cờ đỏ, Huân chương Suvorov, mang tên M. I. Kalinin** (), hoặc gọi đơn giản là
**Trận phòng thủ Odessa** là một trận đánh giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Romania diễn ra trong giai đoạn đầu của chiến tranh Xô-Đức. Theo kế
**Súng trường Mosin** (tiếng Nga: **винтовка Мосина** _Vintovka Mosina_) là một loại súng trường không tự động lên đạn từng phát một bằng khóa nòng danh tiếng của Đế quốc Nga (sau này là Liên
**Binh đoàn Duyên hải** (tiếng Nga: _Приморская армия_), hay **Tập đoàn quân độc lập Duyên hải** (_Отдельная Приморская армия_), là một đơn vị quân đội cấp tập đoàn quân thuộc Hồng quân Liên Xô, tham
**"Phù thủy đêm"** (; , ) là biệt danh mà các binh sĩ Đức Quốc Xã đặt cho các nữ phi công quân sự của **Trung đoàn không quân ném bom đêm 588** (**'), sau
**Pyotr Kirillovich Koshevoy** (; - 30 tháng 8 năm 1976) là một Nguyên soái Liên Xô, hai lần Anh hùng Liên Xô. ## Thân thế và khởi đầu binh nghiệp trong Nội chiến Koshevoy sinh
**Trại tập trung Auschwitz** ( ) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính
**Pavel Ivanovich Batov** (; - 19 tháng 4 năm 1985) là một tướng lĩnh cao cấp của Hồng quân trong Thế chiến thứ hai, hai lần Anh hùng Liên Xô. Batov đã chiến đấu trong
**Grigory Petrovich Kotov** (; 21 tháng 10 năm 1902 – 7 tháng 11 năm 1944) là một trung tướng Hồng quân trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Ngày 7 tháng 11 năm 1944, ông
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**_Close Combat III: The Russian Front_** (tạm dịch: _Chiến đấu gần - Mặt trận nước Nga_) là tựa game chiến thuật thời gian thực do hãng Atomic Games phát triển và Microsoft Game Studios phát
**Hmayak Babayan** (tiếng Armenia: Հմայակ Բաբայան; 15 tháng 8 năm 1901 - 21 tháng 4 năm 1945) hay **Amayak Grigoryevich Babayan** (tiếng Nga: Амаяк Григорьевич Бабаян; tiếng Armenia: Հմայակ Գրիգորի Բաբայան) là một thiếu tướng
**Sergey Georgyevich Gorshkov** (; 26 tháng 2 năm 1910 - 13 tháng 5 năm 1988) là một Đô đốc Hải quân Liên Xô, từng hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
**Rodion Yakovlevich Malinovsky** (tiếng Nga: _Родион Яковлевич Малиновский_) (sinh ngày: 23 tháng 11 năm 1898, mất ngày 31 tháng 3 năm 1967) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân trong Chiến tranh thế