✨Trận phòng thủ Odessa (1941)

Trận phòng thủ Odessa (1941)

Trận phòng thủ Odessa là một trận đánh giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Romania diễn ra trong giai đoạn đầu của chiến tranh Xô-Đức.

Theo kế hoạch Chiến dịch Barbarossa, việc công kích thành phố Odessa chủ yếu do quân đội phát xít Romania cùng với các đơn vị của Tập đoàn quân số 11 thuộc lục quân Đức. Hồng quân Xô Viết đã kháng cự rất quyết liệt tại Odessa; đồng thời Tập đoàn quân độc lập Duyên hải cũng được nhanh chóng thiết lập từ các đơn vị của Tập đoàn quân số 9), và lực lượng phòng thủ Odessa cũng nhận được sự trợ giúp của Hạm đội Biển Đen. Chính vì vậy, quân phát xít Đức và Romania đã phải mất đến 73 ngày công kích với bốn đợt tấn công lớn mới hạ được thành phố này. Trận Odessa đã lấy mất 93 nghìn binh sĩ của quân đội phát xít Đức và Romania.

Ngày 14 tháng 10 năm 1941, phần lớn các lực lượng Hồng quân tại Odessa đã di tản khỏi thành phố. Lực lượng du kích Liên Xô vẫn ở lại Odessa và tiếp tục quấy phá lực lượng địch. Odessa là thành phố duy nhất bị chiếm đóng bởi một lực lượng mà phần lớn quân số của nó không phải là người Đức và cũng không nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các lực lượng phát xít Đức.

Tháng 4 năm 1944, Odessa được Quân đội Liên Xô giải phóng.

Bối cảnh

Tại thời điểm tháng 6 năm 1941, ba ngày sau khi Chiến tranh Xô-Đức bùng nổ, Phương diện quân Nam (Liên Xô) được hình thành từ Quân khu Odessa. Ban đầu, nó chỉ có tập đoàn quân 9 do thượng tướng Ivan Vladimirovich Tiulenev chỉ huy. Ngày 25 tháng 6 năm 1941, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô rút quân đoàn bộ binh 17 và quân đoàn cơ giới 16 từ tập đoàn quân 12 (Phương diện quân Tây Nam) xây dựng tập đoàn quân 18, thành lập Phương diện quân Nam gồm các tập đoàn quân 9 và 18 do I. V. Tiulenev chỉ huy. Binh lực gồm 13 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn kỵ binh, 2 sư đoàn cơ giới. giang đội Danube, căn cứ hải quân Odessa và các đoàn biên phòng thuộc Bộ dân ủy Nội vụ.

Ngày 27 tháng 6, tập đoàn quân dã chiến 11 (Đức) cùng các tập đoàn quân Romania 3, 4 và quân đoàn cơ giới Hungaria đã tấn công trên toàn tuyến biên giới Liên Xô do Phương diện quân Nam phòng thủ. Đến ngày 7 tháng 7, tập đoàn quân 18 (Liên Xô) bị đẩy lùi về tả ngạn sông Dniestr, tập đoàn quân 9 vẫn giữ được tuyến phòng thủ trên sông Prut và sông Danube. Ngày 18 tháng 7, quân đoàn cơ giới 56 thuộc tập đoàn quân 11 (Đức) chọc thủ phòng tuyến sông Dniestr, đẩy lùi tập đoàn quân 18 lên phía Bắc và tập đoàn quân 9 xuống phía Nam. Ngày 5 tháng 8, tập đoàn quân 4 Romania cùng với quân đoàn cơ giới 50 và quân đoàn bộ binh 72 (Đức) bao vây chủ lực tập đoàn quân 9 (Liên Xô) tại Odessa và các vùng phụ cận. Bộ Tổng tư lệnh các mặt trận hướng Tây Nam (Liên Xô) thành lập Tập đoàn quân Duyên hải độc lập (Отдельная Приморская армия) với nhiệm vụ phòng thủ Odessa.

Binh lực

Liên quân Đức-Romania

Tập đoàn quân Romania 4 của tướng Dumitrescu Quân đoàn bộ binh 50 (Đức) *Quân đoàn bộ binh 72 (Đức)

Quân đội Liên Xô

Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải phòng thủ Odessa do trung tướng I. E. Petrov chỉ huy gồm: Cụm quân thuộc khu phòng thủ Odessa (3 sư đoàn bộ binh) do tướng G. P. Safronov chỉ huy. Sư đoàn bộ binh 25 của đại tá V. F. Vorobiev Sư đoàn bộ binh 95 của đại tá G. M. Kochenov Sư đoàn bộ binh 421. Sư đoàn bộ binh 157. Lữ đoàn hải quân đánh bộ số 1 của đại tá Ya. I. Osipov Liên đội máy bay ném bom 69 của thiếu tá L. L. Shestakov. Đội biên phòng 26 của thiếu tá A. A. Malov.

Diễn biến

Ngày 5 tháng 8, chiến sự đã diễn ra ở khu vực ngoại vi. Đến ngày 8 tháng 8, Odessa đã bị bao vây từ hướng Tây và hướng Bắc, chỉ còn hướng Đông và hướng biển vẫn do Phân hạm đội Odessa của hạm đội Biển Đen trấn giữ. Đến ngày 10 tháng 8, các đơn vị quân đội Liên Xô tại Odessa đã lập tuyến phòng thủ gồm nhiều lớp trên các hướng tiếp cận vào thành phố. Hàng trăm nghìn người dân đã tham gia xây dựng tuyến phòng thủ thành phố gồm ba lớp, lớp ngoài cùng cách trung tâm thành phố 20 đến 25 km, lớp giữa cách trung tâm từ 10 đến 14 km và lớp trong cùng cách trung tâm từ 6 đến 10 km. Khoảng 250 chướng ngại vật chống tăng đã được lắp đặt.

Các chỉ huy cao cấp của quân Đức giao cho tập đoàn quân Romania 4 làm lực lượng chủ lực đánh chiếm Odessa. Tập đoàn quân này có 12 sư đoàn bộ binh và 7 lữ đoàn (có 4 sư đoàn người Đức). Ngày 20 tháng 8, lực lượng này được tăng viện thêm 5 sư đoàn quân lấy từ tập đoàn quân Romania 3

Ngày 11 tháng 8, 3 sư đoàn bộ binh, một sư đoàn kỵ binh và 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến bắt đầu kịch chiến với tập đoàn quân Romania 4. Các cuộc phản kích của kỵ binh Liên Xô đã đẩy lùi cuộc công kích chính diện của quân Romania tại lớp phòng thủ ngoài cùng. Ngày 13 tháng 8, quân Đức và Romania đã đột phá đến bờ Biển Đen ở phía đông thành phố, Odessa hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc trên đất liền với Phương diện quân Nam. Ngày 15 tháng 8, quân Romania thay đổi chiến thuật, mở hai mũi vu hồi từ hướng Tây Bắc và Đông Bắc vào hai bên sườn Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải nhưng vẫn bị chặn đứng trước tuyến phòng thủ thứ hai. Chiếc tàu ngầm M-269 và một số khẩu pháo đã được sử dụng trong cuộc phòng thủ 73 ngày tại Odessa năm 1941. (Hiện vật của bảo tàng Odessa).

Để tăng viện cho Odessa đang bị bao vây, ngày 15 tháng 8, đại tướng G. K. Zhukov đã lệnh cho Phó đô đốc F. S. Oktyabrsky chuyển thuộc căn cứ hải quân Odessa cho Tập đoàn quân độc lập Duyên hải, điều động các tàu vận tải vận chuyển vũ khí, đạn dược, thiết bị quân sự, nhiên liệu và hàng tiếp tế cung cấp cho quân phòng thủ. Lực lượng phòng thủ ban đầu chỉ có hai sư đoàn bộ binh và một sư đoàn kỵ binh. Trung tuần tháng 8, hạm đội Biển Đen đã vận chuyển đến đây sư đoàn bộ binh 421, 2 lữ đoàn hải quân đánh bộ, vài chi đội thủy thủ với quân số khoảng 10.000 người, nâng tổng quân số phòng thủ lên khoảng 34.500 người. Tướng I. E. Petrov đã sử dụng hai lữ đoàn hải quân đánh bộ 33 và 60 của các trung tá D. I. Surov và B. V. Kudriavshev cùng với tàu ngầm bịt chặt các hướng ra vào Odessa từ phía biển. Cuối tháng 8, sau khi đã sơ tán toàn bộ trẻ em, người già và phần lớn phụ nũ không có nhiệm vụ, đã có 2.400 đàn ông trong thành phố tình nguyện tham gia vào lực lượng phòng thủ.

Ngày 20 tháng 8, quân Đức và Romania tiếp tục tấn công nhưng vẫn bị chặn đứng trước phòng tuyến thứ hai trong gần một tháng. Một phần lớn quân Đức và Romania thương vong do hỏa lực mạnh từ các pháo hạm của Hạm đội Biển Đen. Để đáp trả, không quân Đức tăng cường oanh tạc thành phố bằng máy bay ném bom và đánh phá các pháo hạm Liên Xô bằng máy bay thả ngư lôi. Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) cũng sử dụng có hiệu quả các máy bay ném bom gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị thiết giáp và pháo binh Romania.

Sau khi quân Romania đột phá đến bờ biển phía Đông thành phố, tướng Eugen Ritter von Schobert, tư lệnh tập đoàn quân 11 (Đức) đưa quân đoàn 50 còn nguyên vẹn mở cuộc tấn công qua cửa sông Kuyal sâu từ 4 đến 5 km, uy hiếp hướng Đông Bắc khu phòng thủ Odessa và tăng cường thêm ba trung đoàn pháo hạng nặng đánh phá thành phố. Để tăng cường phòng ngự ở hướng này, Hạm đội Biển Đen đã vận chuyển sư đoàn bộ binh 157 từ Novorosiysk tiếp tục tăng viện cho Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải. phải|nhỏ|38 nghìn sĩ quan và binh sĩ quân đội Liên Xô đã được tặng thưởng huy chương Vì sự nghiệp chiến đấu bảo vệ thành phố cảng Odessa.

Ngày 22 tháng 9, cụm quân Romania đang tiến công tại khu vực phía đông đã bị phản công bất ngờ bởi ba trung đoàn hải quân đánh bộ Liên Xô của giang đoàn Danube do Phó đô đốc Gorshkov chỉ huy. Hai tiểu đoàn đổ bộ đường không do trung tá Grigoriev chỉ huy đã được thả xuống sau lưng quân Romania. Kết quả của các cuộc phản công này đã làm cho quân Romania tổn thất lớn, 2 sư đoàn bị thương vong nặng và bị đẩy lùi từ 5 đến 8 km. Liên quân Đức-Romania mất các vị trí thuận lợi để triển khai pháo binh bắn phá khu cảng Odessa.

Mặc dù mọi cố gắng đánh chiếm Odessa của liên quân Đức-Romania đều không đạt kết quả nhưng các diễn biến tại mặt trận Ukraina lại rất phức tạp. Thừa thắng sau trận bao vây và đánh tan 3 tập đoàn quân Liên Xô tại phía Đông Kiev, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã đột kích vào Donbas và Krym, đánh chiếm Kharkov, uy hiếp căn cứ hải quân Sevastopol. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô buộc phải lựa chọn và trong trường hợp này, họ quyết định bỏ Odessa để tăng cường phòng thủ của Krym và giữ Sevastopol. Ngày 30 tháng 9 năm 1941, Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô điện cho tướng I. E. Petrov:"Phối hợp với Hạm đội Biển Đen rút quân khỏi Odessa đến phòng thủ bán đảo Krym càng sớm càng tốt".

Từ ngày 1 đến ngày 16 tháng 10, Hạm đội Biển Đen đã tổ chức vận chuyển các đơn vị của Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải từ Odessa về Sevastopol. Các cuộc chuyển quân dược tổ chức bí mật về ban đêm trong suốt hai tuần nên hầu như không bị tổn thất về người, vũ khí và phương tiện. Cuộc phòng thủ dài 73 ngày của quân đội Liên Xô tại Odessa kết thúc. Tập đoàn quân Romania 4 đánh chiếm thành phố. Tập đoàn quân 11 (Đức) lại một lần nữa phải đối đầu với Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải (Liên Xô) tại bán đảo Krym và căn cứ Sevastopol.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận phòng thủ Odessa** là một trận đánh giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Romania diễn ra trong giai đoạn đầu của chiến tranh Xô-Đức. Theo kế
**Chiến dịch phòng thủ Tuapse** là một trong các hoạt động quân sự quân trong của quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô trong Chiến dịch Kavkaz, một phần diễn biến của
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Uman** là một phần Chiến dịch Barbarossa trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Xô-Đức, diễn ra từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 1941 diễn ra tại thành phố
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Binh đoàn Duyên hải** (tiếng Nga: _Приморская армия_), hay **Tập đoàn quân độc lập Duyên hải** (_Отдельная Приморская армия_), là một đơn vị quân đội cấp tập đoàn quân thuộc Hồng quân Liên Xô, tham
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka** (6 tháng 3 - 18 tháng 3 năm 1944) là một chiến dịch tấn công cấp Phương diện quân thuộc các hoạt động quân sự tại hữu ngạn sông Dniepr
**Phương diện quân Nam** (tiếng Nga: _Южный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện quân
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Grigory Petrovich Kotov** (; 21 tháng 10 năm 1902 – 7 tháng 11 năm 1944) là một trung tướng Hồng quân trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Ngày 7 tháng 11 năm 1944, ông
**Ivan Stepanovich Koniev** (tiếng Nga: _Иван Степанович Конев_; đọc là **Ivan Xtêphanôvích Cônhép**; 28 tháng 12 năm 1897 - 21 tháng 5 năm 1973) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân Liên Xô
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
**Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky** (tiếng Nga: _Алекса́ндр Миха́йлович Василе́вский_) (1895-1977) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng, từ năm 1943 là Nguyên soái Liên bang Xô viết. Ông là Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Mikhail Ivanovich Potapov** (; 1902 - 1965) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô, hàm Thượng tướng (1961). Trong những tháng đầu tiên của Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, trên cương vị Tư
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Dmitry Timofeyevich Kozlov** (; 4 tháng 11 (lịch cũ: 23 tháng 10) năm 1896, Razgulyayka, nay thuộc Nizhny Novgorod Oblast - 6 tháng 12 năm 1967, Minsk) là một chỉ huy quân sự Liên Xô,
**Abidin Dino** (23 tháng 3 năm 1913 - 7 tháng 12 năm 1993) là một nghệ sĩ và một họa sĩ người Thổ Nhĩ Kỳ. ## Tuổi thơ Dino sinh ngày 23 tháng 3 năm
**Rodion Yakovlevich Malinovsky** (tiếng Nga: _Родион Яковлевич Малиновский_) (sinh ngày: 23 tháng 11 năm 1898, mất ngày 31 tháng 3 năm 1967) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân trong Chiến tranh thế
**USS _Williamson_ (DD-244)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**Cụm tập đoàn quân Nam** () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
**Dmitriy Dmitriyevich Maksutov** () ( - 12 tháng 8 năm 1964) là một nhà vật lý, quang học và thiên văn học của Liên Xô. Ông là người sáng chế ra loại kính viễn vọng
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
Thượng tướng **Nikandr Evlampyevich Chibisov** (; 5 tháng 11 (lịch cũ 24 tháng 10) năm 1892 tại stanitsa Romanovskaya (tỉnh Rostov) - 20 tháng 9 năm 1959 tại Minsk) là một tướng lĩnh quân sự
**Sergey Pavlovich Korolyov** (Tiếng Nga: Сергей Павлович Королёв, tiếng Ukraina: Сергій Павлович Корольов) (12 tháng 1 năm 1907 – 14 tháng 1 năm 1966), thường gọi **_Sergey Korolyov_** hoặc **_Sergei Korolev_**, là một nhà khoa
**Mikhail Petrovich Kirponos** (, , ; 12 tháng 1 năm 1892 - 20 tháng 9 năm 1941) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Được phong danh hiệu Anh
**Otto Skorzeny** (12 tháng 6 năm 1908 tại Viên – 6 tháng 7 năm 1975 tại Madrid) là một trung tá (tiếng Đức: _Obersturmbannführer_) của Lực lượng Vũ trang SS trong suốt giai đoạn Chiến
**Mikhail Dmitryevich Solomatin** (5 tháng 12 (lịch cũ: 23 tháng 11) năm 1894 - 22 tháng 11 năm 1986) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Thượng
**Lớp tàu tuần dương _Kirov_ (Đề án 26)** là một lớp gồm sáu tàu tuần dương được đóng vào cuối những năm 1930 của Hải quân Liên Xô. Sau hai con tàu đầu tiên, giáp
**Ivan Danilovich Chernyakhovsky** hay **Cherniakhovsky** (tiếng Nga: _Ива́н Дани́лович Черняхо́вский_) (sinh ngày 29 tháng 6, lịch cũ ngày 16 tháng 6 năm 1906, hy sinh ngày 18 tháng 2 năm 1945) là một chỉ huy
**Semyon Konstantinovich Timoshenko** (tiếng Nga: _Семён Константинович Тимошенко_) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 1895, lịch cũ là 6 tháng 2, mất ngày 31 tháng 3 năm 1970) là một Nguyên soái Liên Xô và
**Semyon Moiseyevich Krivoshein** (tiếng Nga: _Семён Моисеевич Кривошеин_; 1899 - 1978) là một chỉ huy của lực lượng xe tăng Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người đã đóng vai trò quan
**Yakov Timofeyevich Cherevichenko** (; 12 tháng 10 năm 1894 - 4 tháng 7 năm 1976) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Tiểu sử ### Thế chiến thứ
**Elvis Aaron Presley** (8 tháng 1 năm 1935 – 16 tháng 8 năm 1977), hay còn được gọi đơn giản là **Elvis**, là nam ca sĩ, diễn viên người Mỹ. Ông được coi là một trong
**Konstantin Georgiyevich Paustovsky** (tiếng Nga: _Константин Георгиевич Паустовский_) (sinh ngày 31 tháng 5 năm 1892, mất ngày 14 tháng 7 năm 1968) là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng với thể loại truyện ngắn.
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành số 6 Huân chương Cờ Đỏ** (tiếng Nga: _6-я общевойсковая Краснознамённая армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Lực lượng Mặt
nhỏ|phải|Lữ đoàn Cơ giới số 72 nhỏ|phải|Trang bị hiện đại của Lữ đoàn Cơ giới số 72 **Lữ đoàn Cơ giới số 72** (_72nd Mechanized Brigade_) tên đầy đủ là **Lữ đoàn Cơ giới Độc
**Sergey Aleksandrovich Chernykh** (; - 16 tháng 10 năm 1941) là một phi công chiến đấu Liên Xô trong Nội chiến Tây Ban Nha, sau đó trở thành Thiếu tướng kiêm Tư lệnh Sư đoàn
**Ion Antonescu** (; ; 14 tháng 6 [O.S. 2 tháng 6] 1882 – 1 tháng 6 năm 1946) là một sĩ quan quân đội và thống chế người Romania, ông đã chủ trì hai chế
**Fyodor Ivanovich Tolbukhin** (tiếng Nga: _Фёдор Иванович Толбухин_) (sinh ngày 16 tháng 6 năm 1894, mất ngày 17 tháng 10 năm 1949) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân trong Chiến tranh thế
phải|nhỏ|Xe tăng [[Xe tăng T-34|T-34 tiến ra mặt trận]] Đây là danh sách các loại xe tăng và các phương tiện chiến đấu bọc thép khác của đế quốc Nga , Liên Xô , Liên