✨Chiến dịch tấn công Odessa

Chiến dịch tấn công Odessa

Chiến dịch tấn công Odessa (26 tháng 3 - 14 tháng 4 năm 1944) là một trong các chiến dịch quân sự cuối cùng giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã trong chuỗi chiến dịch hữu ngạn sông Dniepr thuộc Chiến tranh Xô-Đức, một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai. Do thời điểm phát động tiếp tục tấn công chỉ sau Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka một tuần với cơ cấu binh lực và những nhiệm vụ đã được vạch ra từ đầu tháng 3 năm 1944 nên chiến dịch này được một số tác giả coi là giai đoạn 2 của các hoạt động quân sự tại khu vực Nikolayev - Odessa của Quân đội Liên Xô. Trên thực tế, chiến dịch tiếp tục hoàn thành các mục tiêu tiếp theo mà Chiến dịch Bereznegovatoye–Snigirevka còn chưa thực hiện được. Trong chiến dịch này, Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) do đại tướng R. Ya. Malinovsky làm tư lệnh, với sự trợ giúp của Hạm đội Biển Đen do Đô đốc F. S. Oktyabrskiy chỉ huy đã một lần nữa đánh bại Tập đoàn quân 6 (Đức) và Tập đoàn quân 3 (Romania); giải phóng vùng lãnh thổ duyên hải miền Tây Nam Ukraina nằm giữa sông Bug Nam và sông Dnister, trong đó có hai trung tâm quan trọng là thành phố Nikolayev và thành phố cảng quan trọng Odessa.

Kết thúc chiến dịch, Phương diện quân Ukraina 3 tiến ra biên giới Ukraina - Moldova và Ukraina - Romania ở hạ lưu sông Dniestr, bên cánh trái Phương diện quân Ukraina 2 và tổ chức phòng thủ tại đây. Đến tháng 8 năm 1944, hai phương diện quân này đã tổ chức Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi-Chişinău, đánh sập tuyến phòng thủ của liên quân Đức-Romania, buộc Romania phải rút khỏi chiến tranh và quay súng chống lại nước Đức Quốc xã, mở đường cho Quân đội Liên Xô tiến vào vùng Balkan.

Bối cảnh

Sau Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka, Phương diện quân Ukraina 3 phải tạm dừng chiến thuật để củng cố binh lực, bổ sung trang bị, phương tiện, đặc biệt là các phương tiện vượt sông. Thời gian đòi hỏi đặc biệt gấp rút vì trên cánh phải, Tập đoàn quân 58 vẫn đang chống trả các cuộc phản kích của Quân đoàn bộ binh 52 và Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) tại hai đầu cầu Konstantinovka và Voznesensk. Ở cánh trái, Quân Đức tiếp tục củng cố khu phòng ngự quanh phía Đông thành phố Nikolayev giờ đây đã trở thành mặt trận.

Binh lực và kế hoạch

Quân đội Liên Xô

Binh lực của quân đội Liên Xô tham gia chiến dịch về cơ bản là binh lực đã tham gia chiến dịch Bereznegovatoye–Snigirevka với biên chế giảm đi. Ngày 30 tháng 3 năm 1944, Tập đoàn quân 28 của tướng A. A. Grechkin được rút về lực lượng dự bị của Đại bản doanh và đến ngày 27 tháng 5, nó được điều đến Phương diện quân Byelorussia 1. Các tập đoàn quân còn lại đều được bổ sung quân số, xe tăng, pháo và vũ khí, trang bị. Đến ngày 26 tháng 3, binh lực của Phương diện quân Ukraina 3 có 6 tập đoàn quân bộ binh, 1 tập đoàn quân không quân gồm 57 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn xe tăng và cơ giới, 1 cụm kỵ binh cơ giới. Tổng quân số có 470.000 người, được trang bị 435 xe tăng và pháo tự hành, 12.678 pháo và súng cối (trong đó có hơn 3.000 khẩu pháo và súng cối chiến lợi phẩm), 436 máy bay.

Quân đội Đức Quốc xã

Mặc dù bị thiệt hại nặng trong cuộc phòng thủ tại Bereznegovatoye–Snigirevka nhưng Tập đoàn quân 6 (Đức) vẫn còn sức kháng cự đáng kể. Quân Romania vẫn còn giữ được biên chế cơ bản. Đến ngày 26 tháng 3, liên quân Đức-Romaina tại khu vực vẫn còn 20 sư đoàn gồm 16 sư đoàn Đức và 4 sư đoàn Romania, trong đó có 2 sư đoàn xe tăng, 1 trung đoàn pháo tự hành. Tổng quân số khoảng 350.000 người, trang bị chủ yếu còn lại gồm 160 xe tăng và pháo tự hành, 3.200 pháo và súng cối, 550 máy bay, trong đó 400 chiếc của Tập đoàn không quân 4 (Đức), khoảng 150 chiếc của Quân đoàn không quân 1 (Romania). Đêm 27 rạng ngày 28 tháng 3, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng Issa Aleksandrovich Pliyev vượt sông Nam Bug ở phía Nam Voznesensk và tấn công ngay khi trời vừa sáng. Đến ngày 29 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 liên lạc được với Quân đoàn cơ giới cận vệ 2. Xe tăng, cơ giới Liên Xô đã phát triển khu vực đầu cầu rộng đến 22 km từ Konstantinovka đến Voznesensk sâu từ 8 đến 12 km. Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) không thể phá nổi căn cứ đầu cầu này và buộc phải lùi về Berezivka phòng ngự. Ngày 29 tháng 3, các Tập đoàn quân 37 và 57 cũng có mặt ở hữu ngạn sông Nam Bug và tấn công theo hướng chung đến Karlsrukh (???) và Landau (???). Ở giữa mặt trận, ngày 27 tháng 3, Tập đoàn quân 46 và Tập đoàn quân 8 tổ chức vượt sông ở Aleksandrovka (???) và Novo Odessa và đến ngày 29 tháng 3 đã tấn công đến Peschanyi Brod (Pishchanyi Brid) và Shirokolanovka.

Ngày 29 tháng 3, Cụm kỵ binh cơ giới Pliyev và Tập đoàn quân 37 tổ chức vượt con sông nhỏ Tiligul trong hành tiến và công kích cụm cứ điểm Berezivka. Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) phải kéo Sư đoàn xe tăng 3 SS từ Nikolayev về và tung toàn bộ hai sư đoàn xe tăng ra chống chọi với Cụm kỵ binh cơ giới (Liên Xô). Ngày 30 tháng 3, Tập đoàn quân cận vệ 8 cũng vượt sông Tiligul và kéo đến công kích Berezivka từ phía Đông. Trên cánh Bắc, Tập đoàn quân 57 có Quân đoàn xe tăng 23 mở đường tấn công xuống Zhovten. Không chống nổi đòn tấn công của Cụm kỵ binh cơ giới và ba tập đoàn quân Liên Xô, ngày 31 tháng 3, tướng Ewald von Kleist bỏ Berezivka, kéo Quân đoàn xe tăng 57 về giữ Odessa. Ngày 1 tháng 4, Tập đoàn quân cận vệ được lệnh chuyển hướng tấn công về phía Bắc Odessa. Quân đoàn xe tăng 23 và Cụm kỵ binh cơ giới của Pliyev cũng chuyển hướng tấn công xuống phía Nam. Ngày 2 tháng 4, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 đánh chiếm Razdenaya, cắt đứt con đường sắt từ Odessa lên phía Bắc. Ngày 3 tháng 4, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 thọc sâu đến Belyaevka. Cụm quân Đức ở Odessa chỉ còn con đường sang Romania từ phía Tây Nam, qua bến phà Ovidiopol - Akkeman ở cửa sông Dniepr.

Ngày 29 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) vừa đánh vừa rút khỏi Nikolayev. Ngay khi Sư đoàn xe tăng SS "Großdeutschland" vừa chuyển hết quân và xe tăng sang bờ Tây sông Nam Bug, tướng Friedrich Kirchner đã cho nổ mìn phá hủy cây cầu đường bộ gần Varvarovka. Ngày 30 tháng 3, với sự hỗ trợ của công binh Phương diện quân, Tập đoàn quân 6 vượt sông Nam Bug trên cây cầu phao dài gần 1 km được bắc qua gần cây cầu cũ và cắt đứt đường bộ Nikolayev - Odessa. Ngày 31 tháng 3, Tập đoàn quân 6 truy kích theo Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) đang rút về Berezivka, tiêu diệt tàn quân của Sư đoàn bộ binh 15 (Đức) và Sư đoàn bộ binh 4 (Romania) bị rớt lại sau. Ngày 1 tháng 4, Quân đoàn bộ binh 66, Trung đoàn pháo chống tăng 1248 và Tiểu đoàn súng phun lửa 251 đã đánh lui cuộc phản kích của Sư đoàn xe tăng SS "Großdeutschland", đốt cháy 38 xe tăng Đức ở phía Bắc đầm lầy Khadzhibeysk gần cửa sông Tiligul. Thừa thắng, Tập đoàn quân 6 vượt sông tiến về Odessa. Sau khi thanh toán xong cụm quân Đức-Romania ở pháo đài Ochakov, Quân đoàn bộ binh 37 cũng bắt kịp chủ lực Tập đoàn quân xung kích 5 trên bờ sông Tiligul và cùng song hành với Tập đoàn quân 6 tấn công hướng đến Odessa.

Đánh chiếm Odessa

Ngày 31 tháng 3, Không quân Đức và Romania tổ chức một trận không kích quy mô lớn lớn vào đoàn xe tăng của Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 đang từ phía Tây Berezivka tấn công về phía Nam. Lúc 11 giờ 40 phút, một quả bom đã rơi trúng chiếc xe tăng T-34 của Trung tướng Trofim Ivanovich Tanaschishin, tư lệnh quân đoàn, làm chết toàn bộ những người trong xe. Thiếu tướng Vladimir Ivanovich Zhdanov, tham mưu trưởng quân đoàn tạm quyền tư lệnh. Ngày 2 tháng 4, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 tiếp tục mở đường cho Cụm kỵ binh cơ giới và Tập đoàn quân 37 tiến xuống phía Nam. Ngày 3 tháng 4, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 cắt đứt đường sắt Odessa - Tiraspol ở nhà ga đầu mối Kutschurgan, đặt Cụm quân Đức ở Odessa trước nguy cơ bị hợp vây.

Các sư đoàn bộ binh 17, 258, 294, 335 và Sư đoàn sơn chiến 3 (Đức) trong khi rút sang phía Tây đã rơi đúng vào tuyến tấn công của Tập đoàn quân 37. Quân Đức bỏ lại tất cả các loại xe quân sự, pháo và trang bị nặng, cố chạy đến sông Dniestr và cướp thuyền đánh cá vượt sông trong khi bị quân đội Liên Xô truy đuổi sát gót. Quân đoàn bộ binh 44 (Đức) rút về phía Tây Nam, nơi có bến phà Ovidiopol nối với pháo đài Akkeman bên kia cửa sông Dniestr. Tại Odessa, chỉ còn lại hơn 6 sư đoàn hỗn hợp Đức và Romania phòng ngự không phải để giữ thành phố mà để cản hậu cho các cánh quân kia rút lui.

Ngày 9 tháng 4, cụm kỵ binh cơ giới Pliyev đánh chiếm Belyaevka, tiêu diệt một số sư đoàn Đức và Romania chưa kịp vượt sông. Tập đoàn quân cận vệ 8 điều chỉnh hướng tấn công vòng qua Odessa ở phía Tây Bắc, đánh chiếm các cứ điểm Freydental (???) và Peterstal (???), vây bọc thành phố từ phía Tây. Tập đoàn quân 6 đánh chiếm các thị trấn Dalnik (Velykyi Dalnik) và Usatove, tiếp cận Odessa từ phía Bắc. Tập đoàn quân xung kích 5 tiến dọc theo bờ biển, đánh chiếm Kuyalnik, công kích Odessa từ phía Đông.

Với nhiều đầu cầu quan trọng chiếm được trên bờ Tây sông Dniestr, Quân đội Liên Xô có nhiều điều kiện thuận lợi để tiến hành các chiến dịch tấn công vào vùng Nam Moldova, mở cánh cửa vào Balkan. Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) tiếp quản cảng Odessa, một hải cảng lớn có tầm ảnh hưởng rất rộng ở Tây Bắc Biển Đen. Giờ đây, các tàu nổi, tàu ngầm và không quân của hải quân Hạm đội Biển Đen có thể tăng tầm tấn công vào các khu vực phía Đông Balkan, các hải cảng quan trọng của quân Đức ở Constanţa (Romania), Varna, Burgas (Bulgaria) và khống chế khu vực phía Đông Biển Đen. Odessa cũng trở thành một căn cứ hậu cần quan trọng để Hạm đội Biển Đen khống chế cảng Sevastopol, đánh vào các tuyến tiếp tế đường biển của quân Đức đến Sevastopol, cái "dạ dày" của Tập đoàn quân 17 (Đức) ở Krym, đẩy tập đoàn quân này vào tình thế ngày càng tuyệt vọng hơn.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch tấn công Odessa** (26 tháng 3 - 14 tháng 4 năm 1944) là một trong các chiến dịch quân sự cuối cùng giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã
**Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka** (6 tháng 3 - 18 tháng 3 năm 1944) là một chiến dịch tấn công cấp Phương diện quân thuộc các hoạt động quân sự tại hữu ngạn sông Dniepr
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog** là một trong ba trận hợp vây lớn trong Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr thuộc Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 30 tháng 1 đến 29
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch Myskhako** là một phần hoạt động quân sự của Kế hoạch "Biển" của quân đội Liên Xô trong giai đoạn phản công của Chiến dịch Kavkaz. Từ ngày 4 tháng 2 năm 1943,
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch phòng thủ Tuapse** là một trong các hoạt động quân sự quân trong của quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô trong Chiến dịch Kavkaz, một phần diễn biến của
**Chiến dịch phòng thủ Novorossiysk** nằm trong chuỗi Chiến dịch Kavkaz của Chiến tranh Xô-Đức. Bắt đầu từ ngày 17 tháng 8, Tập đoàn quân 17 (Đức)sử dụng Quân đoàn bộ binh xung kích 5
**Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk** (còn gọi là _Chiến dịch Hạ Dniepr_) là hoạt động quân sự lớn do Phương diện quân Ukraina 4 (Liên Xô) tiến hành chống lại Tập đoàn quân 6 (tái lập)
**Chiến tranh Nga–Ba Lan** diễn ra giữa nước Nga Xô viết và Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan do xung đột sắc tộc cũng như thái độ chống cộng của Ba Lan từ 1919 đến
**Trận phòng thủ Odessa** là một trận đánh giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Romania diễn ra trong giai đoạn đầu của chiến tranh Xô-Đức. Theo kế
**Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky** (tiếng Nga: _Алекса́ндр Миха́йлович Василе́вский_) (1895-1977) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng, từ năm 1943 là Nguyên soái Liên bang Xô viết. Ông là Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân
**Trận vượt sông Dniestr** (21-22 tháng 8 năm 1944) hay còn gọi là **trận đổ bộ Akkerman** là một trận chiến nằm trong chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi-Chişinău thuộc Chiến tranh Xô-Đức. Nó
**Trận chiến Sinop**, hay **Trận** **chiến tại Sinope**, là một trận hải chiến diễn ra vào ngày 30 tháng 11 năm 1853 giữa Đế quốc Nga và Đế chế Ottoman, trong giai đoạn mở đầu
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Rodion Yakovlevich Malinovsky** (tiếng Nga: _Родион Яковлевич Малиновский_) (sinh ngày: 23 tháng 11 năm 1898, mất ngày 31 tháng 3 năm 1967) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân trong Chiến tranh thế
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Binh đoàn Duyên hải** (tiếng Nga: _Приморская армия_), hay **Tập đoàn quân độc lập Duyên hải** (_Отдельная Приморская армия_), là một đơn vị quân đội cấp tập đoàn quân thuộc Hồng quân Liên Xô, tham
**Phương diện quân Ukraina 3** (tiếng Nga: _3-й Украинский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử Phương diện quân Ukraina
**Lev Zakharovich Mekhlis** (, 1 (13) tháng 1 năm 1889, Odessa - 13 tháng 2 năm 1953, Moskva) là một chính trị gia Liên Xô. Ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Lev Davidovich Trotsky** hay **Leon Trotsky** (họ thật là **Bronstein**; – 21 tháng 8 năm 1940) là nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Do Thái gốc Nga – Ukraina,
nhỏ|Bước tiến của Liên Xô từ tháng 8 năm 1943 đến tháng 12 năm 1944 Trong lịch sử Liên Xô, **Mười đòn đánh của Stalin** là mười cuộc tấn công chiến lược thành công do
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**Sergey Georgyevich Gorshkov** (; 26 tháng 2 năm 1910 - 13 tháng 5 năm 1988) là một Đô đốc Hải quân Liên Xô, từng hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
**Mikhail Dmitryevich Solomatin** (5 tháng 12 (lịch cũ: 23 tháng 11) năm 1894 - 22 tháng 11 năm 1986) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Thượng
**Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ 1787–1792** liên quan đến một nỗ lực không thành công của Đế quốc Ottoman nhằm lấy lại các vùng đất đã mất vào tay Đế quốc Nga trong quá trình
**Quân khu Odessa** (; , viết tắt ) từng là một đơn vị hành chính quân sự của Liên Xô và Ukraina. Quân khu bao gồm Moldavia và năm tỉnh của Ukraina là Odessa, Nikolaev,
**Cụm tập đoàn quân Nam** () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân
**Trận Uman** là một phần Chiến dịch Barbarossa trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Xô-Đức, diễn ra từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 1941 diễn ra tại thành phố
**Grigory Petrovich Kotov** (; 21 tháng 10 năm 1902 – 7 tháng 11 năm 1944) là một trung tướng Hồng quân trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Ngày 7 tháng 11 năm 1944, ông
**Trận đổ bộ Zhebriyany (???) -Vilkovo** (Vylkove) (23-24 tháng 8 năm 1944) là một trận đánh đổ bộ do Hồng quân Liên Xô thực hiện nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã, diễn
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
Nạn diệt chủng **Holocaust** (từ tiếng Hy Lạp: **': _hólos_, "toàn bộ" và _kaustós_, "thiêu đốt"), còn được biết đến với tên gọi **Shoah_' (tiếng Hebrew: , _HaShoah'', "thảm họa lớn"), là một cuộc diệt
Thượng tướng **Nikandr Evlampyevich Chibisov** (; 5 tháng 11 (lịch cũ 24 tháng 10) năm 1892 tại stanitsa Romanovskaya (tỉnh Rostov) - 20 tháng 9 năm 1959 tại Minsk) là một tướng lĩnh quân sự
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**Theo luật thời chiến** (tiếng Nga: _По законам военного времени_, _Po zakonam voennogo vremeni_) là một bộ phim truyền hình nhiều tập thuộc thể loại hình sự, hành động trong bối cảnh cuộc Chiến tranh
**Phương diện quân** (tiếng Nga: _Военный фронт_, chữ Hán: _方面軍_) là tổ chức quân sự binh chủng hợp thành cấp chiến dịch chiến lược cao nhất trong quân đội Đế quốc Nga thời đại Sa