✨Phù thủy đêm
"Phù thủy đêm" (; , ) là biệt danh mà các binh sĩ Đức Quốc Xã đặt cho các nữ phi công quân sự của Trung đoàn không quân ném bom đêm 588 ('), sau này được gọi là Trung đoàn không quân Cận vệ ném bom đêm số 46 (', viết tắt là 46-й гвардейский нбап), thuộc Không quân Xô viết trong Thế chiến thứ hai. Biệt danh trên xuất phát từ chiến thuật tấn công đặc biệt của các nữ phi công thuộc trung đoàn này là sử dụng máy bay hạng nhẹ Polikarpov Po-2, bay đêm ở độ cao thấp, khi đến gần mục tiêu thì ngắt động cơ và bay ở chế độ lượn nhằm tránh bị lộ vị trí bởi tiếng động cơ trước khi ném bom. Vì vậy, trước khi bị tấn công, quân Đức chỉ nghe được tiếng gió lướt qua thân máy bay, vốn có một khung chính bằng gỗ và phủ vải, tạo nên tiếng lật phật tương tự tiếng chổi quét. Do đó, những người lính Quân đội Đức Quốc Xã mới đặt biệt danh cho các nữ phi công này là "Phù thủy đêm", giống như hình tượng các phù thủy cưỡi chổi bay trong đêm trong các truyện cổ tích.
Trung đoàn không quân ném bom đêm 588 (từ sau 1943 mang tên Trung đoàn không quân Cận vệ ném bom đêm số 46) là một trong 3 trung đoàn không quân nữ của Liên Xô chiến đấu trong Thế chiến thứ hai. Không như 2 trung đoàn còn lại, Trung đoàn vẫn giữ đội hình toàn nữ (gồm cả các chỉ huy, phi công, hoa tiêu, thợ máy) cho đến tận hết chiến tranh. Sau chiến tranh, các trung đoàn không quân nữ đều được giải thể. Hai mươi ba thành viên của Trung đoàn nhận được danh hiệu Anh hùng Liên Xô, hai người là Anh hùng Liên bang Nga và một người là Anh hùng Kazakhstan.
Hình thành các trung đoàn hàng không nữ
Tháng 6 năm 1941, Chiến tranh Xô–Đức bùng nổ. Từ thời điểm ấy, rất nhiều phụ nữ Liên Xô tình nguyện tham gia chiến đấu để trả thù cho những người thân của họ bị phát xít Đức giết hại, nhà cửa ruộng vườn bị đốt cháy. Trong số đó, có không ít người mong muốn trở thành phi công. Nắm bắt nguyện vọng đó, Anh hùng Liên Xô, Thiếu tá Marina Mikhailovna Raskova đã đề đạt nguyện vọng này đến lãnh tụ Stalin.
Nhờ sự vận động tích cực của Marina Raskova, ngày 8 tháng 10 năm 1941, Stalin đã ký quyết định số 0099 của Dân Ủy Quốc phòng, về việc thành lập trung đoàn hàng không nữ trong Không quân Hồng quân. Đây là những đơn vị không quân chiến đấu đầu tiên trên thế giới do phụ nữ đảm nhiệm, không chỉ vị trí phi công, hoa tiêu, mà còn cả vị trí thợ máy và đội ngũ hỗ trợ bay. Nhân sự cho các trung đoàn được tuyển chọn từ các đơn vị thuộc Không quân Hồng quân, Hàng không Dân sự và OSOAVIAKhIM.
Từ hơn 2.000 lá đơn tình nguyện, Raskova chọn ra 400 phụ nữ ở độ tuổi 18 đến 26, hầu hết là sinh viên các khoa Toán, Lý, ở các trường đại học.
Từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 5 năm 1944, Trung đoàn thực hiện nhiệm vụ yểm trợ trên không cho bộ binh trong Chiến dịch Kerch-Eltigen như một phần của Chiến dịch Krym và giải phóng thành phố Sevastopol.
Ngày 15 tháng 5 năm 1944, Trung đoàn được chuyển thuộc Sư đoàn không quân ném bom đêm số 325, Quân đoàn không quân 4, Phương diện quân Belorussia 2. Tháng 6 và tháng 7 năm 1944, Trung đoàn tham chiến ở Belarus, tham gia ném bom các công sự của quân Đức dọc theo sông Pronya, giúp giải phóng Białystok, Cherven, Minsk và Mogilev.
Tháng 8 năm 1944, Trung đoàn hoạt động trên đất Ba Lan trong các chiến dịch nhằm trục xuất quân đội Đức Quốc Xã khỏi các thành phố Augustów, Warsaw và Ostrołęka.
Tháng 1 năm 1945, Trung đoàn tham gia Chiến dịch Đông Phổ.
Tháng 3 năm 1945, Trung đoàn tham gia vào các cuộc tấn công giải phóng các thành phố Gdynia và Gdansk.
Từ tháng 4 năm 1945 cho đến kết thúc chiến tranh, Trung đoàn hỗ trợ ném bom trong Chiến dịch Wisla-Oder.
Ngày 4 tháng 5 năm 1945, những "phù thủy đêm" bay chuyến cuối cùng, ném bom một vị trí phòng thủ của lính Đức cách Berlin 60 km. Ba ngày sau, Đức Quốc xã chính thức đầu hàng.
Khi mới thành lập, Trung đoàn chỉ được trang bị 20 chiếc máy bay Polikarpov Po-2. Về sau, số lượng có tăng lên 45. Vào cuối cuộc chiến, có cả thảy 36 chiếc tham chiến. Đây là một loại máy bay 2 tầng cánh, 2 chỗ ngồi đã lỗi thời, chuyên dùng để trinh sát, huấn luyện hoặc phun thuốc trừ sâu với 1 động cơ cánh quạt 99 mã lực, tốc độ bay tối đa chỉ có 152 km/giờ, mang được 260 kg hàng hóa. Để khắc phục những nhược điểm của chiếc Po-2, các nhân viên kỹ thuật của Trung đoàn thực hiện một số cải tiến. Kết quả là Po-2 có thể mang được 350 kg bom cùng một súng máy với 200 viên đạn. Tuy nhiên, được cái này thì mất cái khác, để mang được bom và súng, Po-2 phải tháo bỏ một số bộ phận không thật cần thiết như bình xăng phụ, thùng đựng thuốc trừ sâu, các khung bằng sắt để lắp đặt những ống phun thuốc trừ sâu, còn phi công thì không mang dù cho đến năm 1944.
Khí cụ bay cũng rất thô sơ. Nó chỉ gồm thước kẻ, đồng hồ bấm giờ, đèn pin, bút chì, bản đồ và la bàn; còn trong tác chiến, các phi công phải tập bay đêm, đánh đêm, gọi là chiến thuật tàng hình. Vào ban đêm, các nữ phi công phải chịu đựng nhiệt độ dưới 0°C, gió lạnh và nguy cơ bị tê cóng. Trong mùa đông khắc nghiệt của Liên Xô, chỉ cần chạm vào máy bay băng giá có nguy cơ bị mất da ngay lập tức. Sức nặng của bom khiến những chiếc máy bay gỗ này phải bay ở độ cao thấp hơn, khiến chúng dễ trở thành mục tiêu, do đó chúng chỉ thực hiện nhiệm vụ trong đêm.
Các phi công tận dụng những tính năng bay của Po-2 để chuyển thành các lợi thế trong chiến đấu. Khi bay gần đến mục tiêu, phi công sẽ ngắt động cơ và để ở chế độ lượn, vì vậy, rất khó để quân Đức có thể phát hiện trước khi bị tập kích. Tốc độ lượn của máy bay cũng chậm ở mức chỉ bằng một nửa tốc độ của một lính nhảy dù, cộng với độ cao thấp, vì vậy, những loạt bom được các phù thủy đêm ném xuống tuy ít nhưng rất chính xác, gây ra những tâm lý hoang mang cho quân Đức. Cơ cấu lái kép cho phép cả phi công và hoa tiêu đều có thể điều khiển máy bay. Đã có những trường hợp khi các phi công hy sinh, các hoa tiêu đã đưa máy bay về lại căn cứ.
Chiến thuật
Trong thời gian đầu tham chiến, các phi công của Trung đoàn được tổ chức thành 40 đội, mỗi đội 2 người, cứ bay 1 đêm thì nghỉ 1 đêm. Trung bình mỗi đêm, 1 chiếc Po-2 thực hiện 8 chuyến bay. Họ luôn bay theo nhóm 3 máy bay: 2 máy bay sẽ đóng vai trò là mồi nhử, khiến đối phương phải dùng đèn rọi. Sau đó, 2 máy bay này biến mất theo 2 hướng ngược nhau và xoắn mạnh để tránh súng phòng không. Chiếc thứ 3 sau đó sẽ bay trong bóng tối, hướng tới mục tiêu và thả bom. Trình tự này sẽ tiếp tục cho đến khi cả 3 máy bay đã thả hết cả bom được giao. Tổng cộng, Trung đoàn đã thực hiện 23.672 lược xuất kích,, bao gồm:
- Chiến dịch Kavkaz – 2.920 lần xuất kích
- Tại Kuban, Bán đảo Taman, Novorossiysk – 4.623 lần xuất kích
- Chiến dịch Krym – 6.140 lần xuất kích
- Chiến dịch Bagration – 400 lần xuất kích
- Chiến dịch Wisla-Oder – 5.421 lần xuất kích
- Chiến dịch phòng ngự hồ Balaton – 2.000 lần xuất kích
Tổng cộng trung đoàn đã tích lũy được 28.676 giờ bay. Thời gian nghỉ giữa các chuyến bay là 5-8 phút, đôi khi trong đêm, phi hành đoàn thực hiện 6-8 chuyến vào mùa hè và 10-12 vào mùa đông. Các phi công đã thả hơn 3.000 tấn bom Ngoài những tổn thất trong quá trình huấn luyện trước khi tham chiến, thiệt hại trong chiến đấu của Trung đoàn lên tới 23 người và 28 máy bay. Tổn thất nặng nhất của Trung đoàn là vào đêm 31 tháng 7, rạng sáng 1 tháng 8 năm 1943, khi 4 máy bay bị mất cùng một lúc. Bộ chỉ huy Đức, do bị ném bom đêm liên tục, đã điều một nhóm máy bay chiến đấu đêm đến khu vực hoạt động của Trung đoàn. Đây là một điều hoàn toàn bất ngờ đối với các phi công Liên Xô. Ban đầu, họ hoàn toàn không hiểu vì sao các pháo phòng không của quân Đức đều im tiếng súng, nhưng từng chiếc máy bay của họ đều bị bốc cháy. Khi nhận ra rằng các máy bay chiến đấu đêm Messerschmitt Bf. 110 đã bắn vào họ, các phi vụ xuất kích được tạm thời dừng lại. Tổng cộng, phi công Josef Kociok đã bắn hạ được 3 chiếc Po-2 và được tặng huân chương Chữ thập Hiệp sĩ.. Vào ngày 10 tháng 4 năm 1943, một tai nạn thảm khốc đã xảy ra tại sân bay khi một chiếc Po-2 hạ cánh trong đêm đã hạ trúng lưng một máy bay khác vừa hạ cánh trước đó. Tai nạn xảy ra làm các phi công Polina Makagon và Lida Svistunova chết ngay lập tức, Julia Pashkova chết vì vết thương trong bệnh viện. Chỉ có một phi công còn sống - Khiuaz Dospanova, người bị thương nặng - chân bị gãy, nhưng sau vài tháng nhập viện, cô đã trở lại làm nhiệm vụ, dù cho vết thương là không hoàn toàn phục hồi.
Mặc dù thực tế là các phi công đã hy sinh sau chiến tuyến, nhưng không ai trong số họ bị xem là mất tích. Sau chiến tranh, Chính ủy Trung đoàn Yevdokiya Yakovlevna Rachkevich, đã quyên góp từ các thành viên trung đoàn, đến tất cả các vị trí máy bay rơi và tìm kiếm mộ của tất cả người đã hy sinh.
Các chỉ huy trung đoàn
thumb|[[Irina Sebrova đã bay 1.008 chuyến, nhiều nhất trong trung đoàn.]]
; Trung đoàn trưởng:
- Yevdokiya Bershanskaya (1942-1945) ; Chính ủy (sau đổi thành Phó trung đoàn trưởng phụ trách chính trị):
- Yevdokiya Rachkevich (1942-1945) ; Phó trung đoàn trưởng phụ trách bay:
- Serafima Amosova (1942-1945) ; Tham mưu trưởng
- Maria Fortus (1942)
- Irina Rakobolskaya (1942-1945) ; Trưởng ban Công tác Đảng:
- Maria Runt (1942-1945) ; Trưởng ban Công tác Thanh niên:
- Alexandra Khoroshilova (1942-1945)
Vinh danh
Trong thời gian chiến tranh, Trung đoàn được Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Cờ đỏ ngày 24 tháng 4 năm 1944 và Huân chương Suvorov hạng Ba ngày 5 tháng 4 năm 1945. Hơn 250 cô gái của Trung đoàn đã được trao danh hiệu Anh hùng và huân chương các loại. Trung đoàn trưởng, Trung tá Cận vệ Yevdokiya Bershanskaya là phụ nữ duy nhất được trao tặng Huân chương Suvorov trong chiến tranh. thumb|[[Yevdokiya Nosal, thành viên đầu tiên của trung đoàn được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết và là nữ phi công đầu tiên được truy tặng danh hiệu này. |liên_kết=Special:FilePath/Nosal_prewar(cropped).jpg]]
Tổng cộng có 23 quân nhân thuộc Trung đoàn được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết, 2 người được trao tặng Anh hùng Liên bang Nga, và 1 người được trao tặng Anh hùng Kazakhstan.
Anh hùng Liên bang Xô viết
Trung úy Cận vệ Yevdokiya Nosal, 354 phi vụ. Truy tặng 24 tháng 5 năm 1943. Nữ phi công đầu tiên được trao danh hiệu Anh hùng Liên Xô trong Thế chiến thứ hai.
Đại úy Cận vệ Maria Smirnova, 950 phi vụ. Phong tặng 26 tháng 10 năm 1944.
Thượng úy Cận vệ Yevdokiya Pasko, 790 phi vụ. Phong tặng 26 tháng 10 năm 1944.
Thiếu tá Cận vệ Yevdokiya Nikulina, 740 phi vụ. Phong tặng 26 tháng 10 năm 1944.
Thượng úy Cận vệ Yevgeniya Rudneva, 645 phi vụ. Truy tặng 26 tháng 10 năm 1944.
Thượng úy Cận vệ Irina Sebrova, 1004 phi vụ. Phong tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Natalia Meklin, 980 phi vụ. Phong tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Yevgeniya Zhigulenko, 968 phi vụ. Phong tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Yekaterina Ryabova, 890 phi vụ. Phong tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Đại úy Cận vệ Nadezhda Popova, 852 phi vụ. Phong tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Rufina Gasheva, 848 phi vụ. Phong tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Vera Belik, 813 phi vụ. Truy tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Đại úy Cận vệ Olga Sanfirova, 630 phi vụ. Truy tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Tatyana Makarova, 628 phi vụ. Truy tặng 23 tháng 2 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Nina Ulyanenko, 915 phi vụ. Phong tặng 18 tháng 8 năm 1945.
Thượng úy Cận vệ Zoya Parfenova, 680 phi vụ. Phong tặng 18 tháng 8 năm 1945. Người tham gia cuộc diễu hành chiến thắng tại Moskva 1945.
Thượng úy Cận vệ Raisa Aronova, 960 phi vụ. Phong tặng 15 tháng 5 năm 1946.
Thượng úy Cận vệ Antonina Khudyakova, 926 phi vụ. Phong tặng 15 tháng 5 năm 1946.
Thượng úy Cận vệ Polina Gelman, 869 phi vụ. Phong tặng 15 tháng 5 năm 1946.
Đại úy Cận vệ Marina Chechneva, 810 phi vụ. Phong tặng 15 tháng 5 năm 1946.
Thượng úy Cận vệ Nina Raspopova, 805 phi vụ. Phong tặng 15 tháng 5 năm 1946.
Thượng úy Cận vệ Maguba Syrtlanova, 780 phi vụ. Phong tặng 15 tháng 5 năm 1946.
Đại úy Cận vệ Larisa Rozanova, 793 phi vụ. Phong tặng 23 tháng 2 năm 1948.
Anh hùng Liên bang Nga
Thượng úy Cận vệ Aleksandra Akimova, 680 phi vụ. Phong tặng 31 tháng 12 năm 1994.
Trung úy Cận vệ Tatyana Sumarokova, 725 phi vụ. Phong tặng 11 tháng 10 năm 1995.
Anh hùng Kazakhstan
Thượng úy Cận vệ Khiuaz Dospanova, hơn 300 phi vụ. Phong tặng 7 tháng 12 năm 2004. Bà chính là người duy nhất sống sót trong vụ tai nạn đêm ngày 10 tháng 4 năm 1943.
Tưởng niệm
Vài tháng sau khi kết thúc chiến tranh, Trung đoàn bị giải thể. Hầu hết các thành viên của Trung đoàn xuất ngũ và trở về cuộc sống dân sự. Nhiều người trở lại trường học để tiếp tục việc học bị gián đoạn. Tuy nhiên, tình bạn thời quân ngũ giữa họ vẫn được duy trì. Trong cuộc họp cuối cùng của Trung đoàn, mọi người đã thống nhất hàng năm sẽ gặp lại nhau tại quảng trường Nhà hát Bolshoi ở Moskva vào ngày 2 tháng 5 và ngày 8 tháng 11. Trong các cuộc họp mặt này, mọi người sẽ ôn lại các kỷ niệm thời chiến đấu, tưởng nhớ những người bạn đã hy sinh và cùng chia sẻ những thành công và khó khăn trong cuộc sống hiện tại.
Một số khu vực bảo tàng kỷ niệm Trung đoàn được thành lập ở các trường học như trường cấp hai số 213 ở Moskva, trường cấp hai số 105 ở Samara, trường cấp hai số 182 ở Novosibirsk...
Năm 2012, nhà xuất bản Sách Đại học đã xuất bản một tập thơ được viết bởi các cựu thành viên Trung đoàn. Biên tập tập thơ là cựu Trung tá, giáo sư khoa Vật lý không gian, khoa vật lý của Đại học quốc gia Moskva - Rakobolskaya Irina Vyacheslavovna.
Những trung đoàn nữ khác
Ngày 8 tháng 10 năm 1941, Stalin ký quyết định 0099 thành lập các trung đoàn hàng không nữ, gồm 3 Trung đoàn là 586, 587 và 588 với biên chế đều là nữ quân nhân. Hai trung đoàn còn lại là Trung đoàn 586, được sử dụng máy bay Yak-1 và Trung đoàn 587, sử dụng máy bay Pe-2.
Mặc dù cả ba trung đoàn được biên chế với quân số là toàn nữ. Nhưng trung đoàn 586 và 588 sử dụng thợ cơ khí nam, Chỉ huy Trung đoàn 586 là Thiếu tá Tamara Aleksandrovna Kazarinova, được thay thế Thiếu tá Aleksandr Vasilievich Gridnev, vào tháng 10 năm 1942. Trung đoàn 587 ban đầu dưới sự chỉ huy của Marina Raskova, nhưng sau khi bà qua đời năm 1942, Thiếu tá Valentin Vasilievich Markov, đã thay thế bà. Máy bay Pe-2 của Trung đoàn 587 cũng yêu cầu một người đủ chiều cao để vận hành súng máy phía sau, nhưng những phụ nữ được tuyển dụng không đủ chiều cao nên một số nam quân nhân phải thay thế. Nhân viên điều khiển và nhân viên tìm kiếm của Trung đoàn 588 cũng là nam.
Trong văn hóa đại chúng
thumb|Một phong bì năm 1982 của Liên Xô kỷ niệm 40 năm thành lập trung đoàn.
- Năm 1974, bộ phim Liên Xô Tham chiến chỉ toàn "những ông già" (__) do Leonid Bykov làm đạo diễn, dựa trên hồi ký của cựu phi công chiến đấu Nga Vitaly Popkov. Trong phim khắc họa chuyện tình của phi công nữ Masha Popova và phi công Sagdullayev 'Romeo'. Nhân vật Masha dựa trên hình ảnh của Nadezhda Popova, một chỉ huy của Trung đoàn; và nhân vật Romeo cũng dựa trên hình ảnh của chồng bà là Semyon Kharlamov. Tướng Kharlamov cũng đồng thời giữ vai trò cố vấn cho bộ phim.
- Năm 1981, một bộ phim dài của Liên Xô có tên là Phù thủy đêm trên bầu trời () do Yevgeniya Zhigulenko, Anh hùng Liên bang Xô viết, làm đạo diễn. Bà cũng là một trong những thành viên của Trung đoàn.
- Năm 2001, phim hợp tác sản xuất Anh - Nga với sự tham gia của Malcolm McDowell, Sophie Marceau và Anna Friel. *The Night Witches đã xuất hiện trong bộ truyện tranh Anh quốc dài tập của Johnny Red, được tạo bởi Tom Tully và Joe Colquhoun cho Battle Picture Weekly. Nhà văn Garth Ennis, sau này viết một sê-ri truyện tranh ba phần nhỏ tên là Battlefields: The Night Witches.
- Một truyện tranh khác là "The Grand Duke" bởi Yann và Romain Hugault (Archaia Entertainment, 2012.)
- Trong năm 2013, hai sản phẩm khác nhau đã được phát hành. Đầu tiên là một phim hoạt hình ngắn có tên The Night Witch kỷ niệm Nadezhda Popova - người đã qua đời hồi đầu năm - được ủy thác hợp tác với The New York Times, được đạo diễn bởi Alison Klayman. Thứ hai là một bộ phim truyền hình Nga có tựa đề Én đêm (Ночные ласточки) được trình chiếu trên Kênh truyền hình 1. Cũng có một thông báo trong cùng một năm của một bộ phim truyện được viết bởi Gregory Allen Howard và được tài trợ bởi cháu trai của Boris Yeltsin, nhưng không có cập nhật kể từ thông báo ban đầu.
- 'Operation Nachthexen', một câu chuyện trong Commando số 4599 (tháng 5 năm 2013), được cho là lần đầu tiên một người phụ nữ là nhân vật chính trong một câu chuyện của ấn phẩm này. Thêm hai câu chuyện nữa là 'Witch Hunt' (4616, Tháng 7 năm 2013) và 'Warrior's Return' (4635, Tháng 9 năm 2013) sản xuất bởi 'Nachthexen Saga'. Cả ba câu chuyện đều được viết bởi Mac MacDonald và được minh họa bởi Carlos Pino. Nhân vật chính được đặt tên là Yana Belinky.
- Tiểu thuyết Sapphire Skies, của Belinda Alexandra kể về Natalya Azarova, một phù thủy đêm xuất bản năm 2014.
- Ban nhạc heavy metal Thụy Điển Sabaton trong album phòng thu Heroes phát hành năm 2014 có một ca khúc là Night Witches.
- Vào năm 2015, Eclectic Pictures thông báo rằng đã lựa chọn một kịch bản của Steven Prowse được gọi là The Night Witches đã giành chiến thắng trong hai mươi lăm cuộc thi viết kịch bản.
- Night Witches của Jason Morningstar là một trò chơi nhập vai trên máy tính bảng năm 2015).
- Năm 2017, Big Finish Productions, một công ty phim truyền hình âm thanh sản xuất chính thức Doctor Who, phát hành The Night Witches, kịch bản viết bởi Roland Moore. *Red Sisters, Black Skies là một trò chơi nhập vai hành động trực tiếp ra mắt vào năm 2017.
- Trong tiểu thuyết Night Witches của Kathryn Lasky xuất bản năm 2017, nhân vật chính bắt đầu nhập ngũ vào đơn vị, chị gái của cô đã phục vụ như một Phù thủy đêm.
- Tiểu thuyết The Huntress của Kate Quinn xuất bản năm 2019, kể một câu chuyện hư cấu hấp dẫn qua con mắt của một Phù thủy đêm trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.