✨Vương Chấn (hoạn quan)

Vương Chấn (hoạn quan)

Vương Chấn (chữ Hán: 王振; ?-1449) là hoạn quan, đại thần nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính trường nhà Minh trong những năm đầu thời Minh Anh Tông và được coi là người có trách nhiệm trong sự biến Thổ Mộc bảo khiến vua Minh Anh Tông bị bộ tộc Ngõa Thích bắt làm tù binh.

Vào cung

Vương Chấn người Úy châu thuộc phủ Đại Đồng, Sơn Tây, vốn là một nho sĩ.

Ông tự hoạn mình tiến thân vào cung làm giáo quan thời Minh Thành Tổ, dạy học trong cung. Đến thời Minh Tuyên Tông, ông được giao việc dạy học cho thái tử Chu Kỳ Trấn ở Đông cung, làm chức Cục lang. Vua Tuyên Tông ban cho ông danh hiệu "tiên sinh" để gọi.

Từ thời Minh Thái Tổ đặt ra chế độ nghiêm khắc cấm hoạn quan can dự triều chính và trao đổi với các quan bên ngoài. Đến thời Minh Thành Tổ, vì vua nhờ vào sự hỗ trợ của các hoạn quan để giành được ngôi vua của cháu là Huệ Đế, nên phá lệ của vua cha, cho các hoạn quan tâm phúc tham gia triều chính. Đến thời Tuyên Tông, triều đình lập ra Nội thư đường trong cung và cắt cử một số hoạn quan phụ trách việc giảng dạy, trong đó đặc cách cho một số người thi mãi không trúng tự nguyện hoạn mình vào cung. Vương Chấn ở trong số đó.

Do phần lớn hoạn quan ít chữ nghĩa, nên Vương Chấn nhanh chóng trở thành người nổi trội trong hàng ngũ các thái giám. Bằng trí tuệ và khéo cư xử, ông đã chiếm được sự quan tâm của thái tử Chu Kỳ Trấn.. Vì vậy uy quyền của Vương Chấn ngày càng lớn.

Do sự chuyên quyền của Vương Chấn, Trương thái hoàng thái hậu từng ra tay ngăn chặn, theo di huấn khi còn sống của Minh Thái Tổ không để hoạn quan dự triều chính. Nhưng điều đó chỉ tạm thời cản Vương Chấn. Năm 1442, Trương thái hoàng thái hậu qua đời, từ đó không còn ai ngăn cản sự lộng hành của Vương Chấn.

Nhiều quan lại sợ Vương Chấn nên ra sức lấy lòng ông, nhiều người muốn bản tấu được phê đều phải đút lót cho Vương Chấn. Nhiều vị công hầu trong triều vì lấy lòng Vương Chấn, tự cắt hết râu cho giống ông, và gọi ông bằng cha, dù khi đó ông mới khoảng 30 tuổi

Khi giao hết quyền cho Vương Chấn, Minh Anh Tông ở sâu trong cung cấm hưởng lạc. Nhà vua hoàn toàn tin tưởng vào tài năng của Vương Chấn, vì từ nhiều đời trước các hoạn quan vào cung đều không biết chữ, trong số các hoạn quan trong triều khi đó chỉ có Vương Chấn xuất thân từ học trò tự hoạn vào cung.

Với vấn đề tây nam

Ngoài biên ải phía tây nam nhà Minh là Lộc Xuyên Tuyên úy ty (Vân Nam) gần Miến Điện, thủ lĩnh là cha con Tư Nhiệm Phát, Tư Cơ Phát và Tư Lộc chống triều đình từ năm 1437. Tình hình tạm yên năm 1440 khi Tư Nhiệm Phát có ý quy phục, nhưng Vương Chấn lại kiến nghị Minh Anh Tông, muốn tỏ rõ võ công triều đình nên huy động 15 vạn binh sĩ Tứ Xuyên, Quý Châu và Hồ Quảng tham chiến tiếp. Sau khi đánh quân Minh đuổi được Tư Nhiệm Phát chạy sang Miến Điện, con Nhiệm Phát là Tư Cơ Phát đã xin quy phục nhưng Vương Chấn không cho, muốn diệt hết người bản địa. Do đó ông lại đề nghị Minh Anh Tông sai Vương Ký mang 13 vạn quân đi đánh. Tư Cơ Phát bị đánh bại, em Cơ Phát là Tư Lộc vẫn không chịu phục. Cuối cùng nhà Minh buộc phải thừa nhận Tư Lộc cai trị vùng này.

Xung đột với Dã Tiên

Tuy Mông Cổ bị Minh Thái Tổ đánh đuổi về thảo nguyên phía bắc nhưng vẫn là lực lượng hùng mạnh, luôn uy hiếp biên cương nhà Minh trong những năm sau đó. Tộc Ngõa Thích là một chi của Mông Cổ, đến đầu thời Minh đã lớn mạnh hơn so với các bộ tộc Mông Cổ khác. Các bộ lạc Ngõa Thích và Thát Đát được thống nhất. Từ năm 1439, thái sư tộc Ngõa Thích là Dã Tiên lên nắm quyền trong chính quyền Mông Cổ của Khả hãn Thoát Thoát.

Dã Tiên ra sức phát triển thế lực của Ngõa Thích, dần dần mở rộng lãnh thổ từ phía đông tới Triều Tiên, phía tây tới Tân Cương.

Năm 1448, Dã Tiên lại cử đoàn sứ bộ gồm 2524 người đến Bắc Kinh, nói thăng lên 3598 người để lĩnh thêm đồ thưởng của nhà Minh. Vương Chấn ra lệnh điều tra số lượng sứ bộ, lại thấy ngựa mang cống của Dã Tiên nhỏ gầy, bèn hạ giá ngựa đi, rồi giảm đồ ban thưởng xuống chỉ còn 1/5. Dã Tiên từng có hứa hẹn thông gia với nhà Minh, thấy triều Minh có ý khất việc đó và làm nhục sứ bộ, bèn nhân cớ đó để khởi binh.

Đưa Minh Anh Tông đi thân chinh

Ngày 11 tháng 7 năm 1449, quân Ngõa Thích của Dã Tiên ồ ạt tấn công Đại Đồng. Tướng Ngô Hạo nhà Minh đụng độ Dã Tiên ở Miêu Nhi Trang bị đại bại và tử trận. Minh Anh Tông điều Tỉnh Nguyên mang 4 vạn quân ra cứu viện, cũng bị tiêu diệt hoàn toàn.

Tình thế bất lợi, nhưng Vương Chấn ra sức cổ vũ Anh Tông thân chinh noi theo gương các vua đời trước đánh Mông Cổ như Minh Thái Tổ và Minh Thành Tổ. Minh Anh Tông quen hưởng lạc, chưa có kinh nghiệm gian khổ trận mạc nên nghĩ việc quân sự khá đơn giản và nghe theo lời Vương Chấn.

Anh Tông để em là Thành vương Chu Kỳ Ngọc trấn thủ kinh thành và lên đường ra mặt trận, mang theo 50 vạn tướng sĩ. Ngày 23 tháng 7 Minh Anh Tông đến Tuyên Phủ. Những ngày hành quân liên tiếp có mưa gió, mọi người lo lắng, lương thảo không đủ, quân lĩnh đều mệt mỏi. Các quan xin Anh Tông ngừng hành quân vì quân sĩ kém hăng hái. Nhưng Anh Tông giao hết quyền cho Vương Chấn. Ông một mực muốn đánh, hạ lệnh ba quân bày trận.

Ngày 1 tháng 8 thì đại quân đến Đại Đồng. Lúc này Dã Tiên sau trận thắng đã chủ động rút về phía bắc chờ đợi thời cơ. Vương Chấn muốn phát lệnh bắc tiến, thái giám thân tín là Quách Kính vội báo cho ông về tình hình bi đát ngoài mặt trận của quân Minh và khuyên ông nên mang vua Minh trở về. Vương Chấn biết tin thật, bắt đầu lo lắng, bèn quyết định rút quân về.

Rút lui và bị giết

Ngày 2 tháng 8, đại quân bắt đầu rút về phía đông. Ban đầu, Vương Chấn định đi theo đường Tử Kinh Quan là đường ngắn để về nhanh. Tuy nhiên, đây cũng là đường qua Uy châu – quê Vương Chấn. Đi được 40 dặm, Vương Chấn chợt thay đổi ý định, sợ số quân lớn 50 vạn người sẽ giẫm nát lúa màu quê nhà, do đó quyết định đổi hướng hành quân từ đường đông nam lên đường đông bắc, đi theo đường cũ từ Tuyên Phủ về kinh. Việc thay đổi lộ trình vừa kéo dài thời gian, vừa gây ra nghi hoặc lớn trong các tướng sĩ. Vương Chấn vào cung từ thời Minh Thành Tổ đến Minh Anh Tông, hoạt động trong khoảng 30 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Cùng bị giết với mấy chục vạn quân Minh có trên 50 quan văn võ, trong đó có cháu Vương Chấn là Vương Lâm giữ chức chỉ huy quân Cẩm Y vệ; còn Minh Anh Tông bị Dã Tiên bắt làm tù binh.

Sau khi chết

Bị truy lục

Em Anh Tông là Thành vương Chu Kỳ Ngọc lên làm nhiếp chính, Vu Khiêm được phong làm Binh bộ Thượng thư (thay Khoáng Dã bị giết ở Thổ Mộc bảo). Vu Khiêm tố cáo các tội lỗi Vương Chấn gây ra tai họa cho Anh Tông, Thành vương bèn hạ lệnh tịch biên gia sản ông và những người trong phe phái. Trong số các gia tài bị tịch thu có những ngôi nhà nguy nga sang trọng như cung điện và nhiều của vàng bạc châu báu quý hiếm cùng hàng vạn con ngựa.

Cháu Vương Chấn là Vương Sơn (anh Vương Lâm) giữ chức Cấm Y vệ đồng tri bị bắt giết, chặt thành từng khúc giữa chợ. Những người trong họ ông cũng bị giết hàng loạt. Thành vương lên làm vua, tức là Minh Đại Tông.

Được phục hồi danh dự

Năm 1450, Minh Anh Tông được người Ngõa Lạt thả về nước, được vua em Đại Tông tôn làm thái thượng hoàng và giam lỏng ở kinh thành.

Đầu năm 1457, Minh Anh Tông làm "Đoạt môn chi biến" (Binh biến đoạt môn) phục hồi ngôi vua. Minh Anh Tông vẫn nhớ đến công lao trước đây của Vương Chấn với mình, vì vậy theo kiến nghị của thái giám Lưu Hằng và thủ hạ của ông là Tào Cát Tường, hạ lệnh khôi phục chức tước, danh dự cho ông. Minh Anh Tông còn tổ chức chiêu hồn ông về an táng, cúng tế cho ông tại chùa Tri Hòa, đặt tên đền thờ ông là Tinh Trung. Vì việc này, Vương Chấn là hoạn quan đầu tiên của Trung Quốc được lập đền thờ, từ đó về sau các hoạn quan khác cũng được lập đền thờ. Môn hạ của ông là Tào Cát Tường cũng được trọng dụng.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Chấn** (chữ Hán: 王振; ?-1449) là hoạn quan, đại thần nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính trường nhà Minh trong những năm đầu thời Minh Anh Tông và
**Hoạn quan** (chữ Nho: 宦官) hay **quan hoạn** là người đàn ông do khiếm khuyết ở bộ phận sinh dục nên không thể có gia đình riêng, được đưa vào cung vua chúa để hầu
**Đồng Quán** (chữ Hán: 童貫; 1054-1126) là hoạn quan và tướng quân nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Lũng đoạn triều đình Đồng Quán tên tự là **Đạo Phu** (道夫), người kinh
**Vương** (chữ Hán: 王) một họ trong tên gọi đầy đủ có nguồn gốc là người Á Đông. Họ này có mặt tại Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Ba họ phổ biến nhất
**Lý Phụ Quốc** (李輔國; 704 – 8 tháng 11, 762), nguyên danh **Lý Tính Trung** (李靜忠), giai đoạn 757 - 758 lấy tên là **Lý Hộ Quốc** (李護國), thụy hiệu **Bác Lục Xú vương** (博陸醜王),
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Quân phiệt Lương châu** là lực lượng quân phiệt cát cứ cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Đây là một trong những lực lượng ly khai nhà Đông Hán sớm nhất, mở
Huy hiệu Chính quyền Anh (một biến thể của Huy hiệu Hoàng gia Anh) **Chính trị Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** lập nền trên thể chế quân chủ lập hiến với thủ
**Cuộc nổi loạn của An Hóa vương** (Hán Việt: An Hóa vương chi loạn, chữ Hán: 安化王之乱), còn gọi An Hóa vương phản loạn, là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Minh diễn
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
**Quan chế nhà Trần** là định chế cấp bậc phẩm hàm quan lại phong kiến dưới thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Khái quát Những ghi chép trong sử sách không hoàn
nhỏ|phải|[[Ngựa là loài được thuần hóa để sử dụng trong chiến tranh từ sớm, là động vật gắn liền với chiến trường, trận địa, với các vị danh tướng]] **Động vật trong quân sự**, **chiến
**Bát hổ** (chữ Hán: 八虎), hay còn được gọi là **Bát đảng** (八黨), là một nhóm hoạn quan bao gồm 8 người có quyền lực mạnh nhất dưới thời Chính Đức nhà Minh (1505–1521). Tám
**Điền Lệnh Tư** (, ? - 893), tên tự **Trọng Tắc** (仲則), là một hoạn quan đầy quyền lực trong triều đại của Đường Hy Tông. Trong hầu hết thời gian Đường Hy Tông trị
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
thumb|Vị trữ quân cuối cùng của lịch sử [[Việt Nam - Nguyễn Phúc Bảo Long.]] **Trữ quân** (chữ Hán: 儲君), hay còn được gọi là **Tự quân** (嗣君), **Trữ nhị** (儲貳), **Trữ vị** (儲位), **Trữ
Vào ngày 15 tháng 4 năm 2019, ngay trước 18 giờ 40 phút CEST, một đám cháy đã bùng phát trên mái nhà Nhà thờ Đức Bà Paris ở Paris, Pháp, gây thiệt hại đáng
**Nguyễn An** (chữ Hán: 阮安, ?-1453), còn gọi là **A Lưu** (chữ Hán: 阿留), là một kiến trúc sư người Việt đầu thế kỷ 15. Một số nguồn tin cho rằng ông là một trong
**Hi Khang Vương** (mất 838, trị vì 836–838) là người trị vì thứ 43 của Tân La. Ông là vương tôn của Nguyên Thánh Vương và là con trai của _y xan_ Kim Hiến Trinh
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Lê Văn Duyệt** (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là **Tả Quân Duyệt**, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một
**Ngụy Trung Hiền** (chữ Hán: 魏忠賢; 1568 - 16 tháng 10 năm 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Bột Hải Quang Tông** (682 - 737), tên thật **Đại Võ Nghệ** (), được biết đến với thụy hiệu **Vũ Vương** ( ; trị vì 719 – 737), là vị quốc vương thứ hai của
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Quán Đào công chúa** (chữ Hán: 馆陶公主, ? - 116 TCN), húy **Lưu Phiêu** (劉嫖), còn được gọi **Đậu Thái chủ** (竇太主), là một Hoàng nữ và là Công chúa nhà Hán. Bà là con
**Vương Hữu Quang** (, ? - 1886) tự **Dụng Hối** (用悔) hiệu **Tế Trai** (祭齋) là một quan đại thần triều Nguyễn, người Việt gốc Hoa, trải 22 năm dưới các đời vua Minh Mệnh,
thumb|_Tranh vẽ Vụ cháy của Jonh Chapin trên Tuần báo Happer_ **Đại hỏa hoạn Chicago** kéo dài từ ngày Chủ nhật 08 tháng 10 năm 1871 đến sáng ngày thứ Ba 10 tháng 10 năm
**Thánh Đức Vương** (trị vì 702–737) là quốc vương thứ 33 của vương quốc Tân La. Ông là vương tử thứ hai của Thần Văn Vương, và là đệ của Hiếu Chiêu Vương. Năm 704,
nhỏ|274x274px|Góc nhìn khu phức hợp từ [[Tòa nhà Empire State|Empire State, 6 tháng sau vụ cháy.]] Vụ hỏa hoạn Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1975 là một vụ phóng hỏa tại Trung tâm
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Nguyên Chẩn** (chữ Hán: 元稹, 779 - 831), biểu tự **Vi Chi** (微之), là nhà thơ, nhà văn và nhà chính trị nổi tiếng của Trung Quốc thời Trung Đường. Ông nổi tiếng cùng Bạch
**Văn Thánh Vương** (mất 857, trị vì 839–857) là quốc vương thứ 46 của Tân La. Ông là con trai cả của Thần Vũ Vương và Định Tông thái hậu Jeonggye. Ông có tên húy
**Thành Đức quân tiết độ sứ** hay **Hằng Dương quân tiết độ sứ**, **Hằng Ký tiết độ sứ**, **Trấn Ký tiết độ sứ** (762 - 930), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung
**Vương Cơ** (chữ Hán: 王基, 190 – 261) là tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công trấn áp 2 cuộc nổi dậy ở Dương Châu của
**Đỗ Thích** (chữ Hán: 杜釋; ? – 979) là một quan viên thời nhà Đinh. Ông được ghi nhận trong chính sử Việt Nam là người đã ám sát vua Đinh Tiên Hoàng và Nam
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Sở Linh vương** (chữ Hán: 楚靈王, trị vì 541 TCN-529 TCN), tên thật là **Hùng Kiền** (熊虔) hay **Hùng Vi** (熊圍), là vị vua thứ 29 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Nghĩa Vũ quân**, còn được gọi là **Dịch Định quân** , là một phiên trấn do một tiết độ sứ do nhà Đường bổ nhiệm ở vùng Hà Bắc ngày nay, tồn tại từ năm
**Trần Quần** (chữ Hán: 陳群; Phiên âm: Ch'en Ch'ün; ?-236) là công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Trần Quần có tên tự là
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Vương Trinh Phong** (chữ Hán: 王貞風, 436–479), thụy hiệu: **Minh Cung hoàng hậu** (明恭皇后), là hoàng hậu dưới triều Lưu Tống Minh Đế (劉宋明帝) Lưu Úc trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Vương
**Vương cung thánh đường Thánh Maria Madalena** (tiếng Pháp: _Basilique Sainte-Marie-Madeleine_) là một nhà thờ mà tiền thân là một tu viện dòng Biển Đức ở Vézelay thuộc tỉnh Yonne, Pháp. Đây là một trong
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La