✨Trữ quân

Trữ quân

thumb|Vị trữ quân cuối cùng của lịch sử [[Việt Nam - Nguyễn Phúc Bảo Long.]]

Trữ quân (chữ Hán: 儲君), hay còn được gọi là Tự quân (嗣君), Trữ nhị (儲貳), Trữ vị (儲位), Trữ tự (储嗣) hoặc Quốc bổn (國本), là cách gọi trung lập tước vị dành cho người đã được chính thức chọn lựa để sau này nối ngôi Hoàng đế hay Quốc vương của khối Đông Á.

Ở khối Đông Á, do việc cha truyền cho con là căn bản trong pháp luật, nên khi nói đến trữ quân thì thường liên hệ danh xưng Thái tử hơn, mặc dù trong thực tế thì "Thái tử" chỉ là tước hiệu mà không phải danh phận. Ở Châu Âu, người kế vị thông thường đều được gọi là Heir apparent, và vấn đề kế vị rất phức tạp theo thể chế kéo theo việc hạn chế về ngôn ngữ, nên họ có những tước hiệu cụ thể để chỉ người thừa kế chắc chắn của mình hơn là những danh xưng phải theo sự phân chia vai vế như Đông Á.

Cũng như nhau về ý nghĩa và hoàn cảnh, "Trữ quân" cùng "Heir apparent" đều ám chỉ trung lập về một người chắc chắn sẽ kế vị mà không bị biến đổi cách gọi do vai vế của người kế vị đối với vị quân chủ. Riêng về vấn đề giới tính, trữ quân được sinh ra trong môi trường chỉ nhận quyền thừa kế của nam giới, nên không có xảy ra việc phải đổi cách gọi nếu người thừa kế là nữ. Còn từ Heir apparent có thể trở thành "Heiress apparent", với thành tố "-ess" điển hình chỉ đến phái nữ.

Khái lược

Các người thừa kế đều theo quy tắc ưu tiên nhất là "Con kế thừa cha", trong đó người thừa kế cần là giới tính là nam giới. Quy tắc này tồn tại ở toàn bộ nền quân chủ, từ Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á đến Châu Âu. Chỉ có trường hợp cá biệt không theo quy luật này, đều là dựa theo lý do cụ thể của quy tắc tạo nên nền quân chủ ấy. Đặc biệt nhất là những Đế chế lớn ở Châu Âu như Đế chế La Mã và Đế quốc Byzantine, thì việc kế thừa đa phần đều dựa vào thực lực hơn là quy tắc cha truyền, hoặc bầu cử giữa các thế lực của Thánh chế La Mã.

Dựa theo mỗi chế độ của nhà nước đều có quy tắc thứ tự thừa kế khác nhau. Song ở Châu Âu, quy tắc "Ưu tiên con trưởng" được đẩy mạnh, có nghĩa nếu người con thừa kế qua đời trước quân chủ và có hậu duệ, thì người hậu duệ ấy vẫn có quyền thừa kế hơn là những người con khác của quân chủ. Quy tắc này được bảo vệ mạnh ở Châu Âu do hệ thống quân chủ có xu hướng quân chủ phân quyền, bị ảnh hưởng bởi pháp luật rất trật tự và có sự ràng buộc bởi tôn giáo. Trong khi ấy, ở những nền quân chủ chuyên chế khác như Đông Á hoặc Nam Á, quan niệm "cha truyền con nối" lại có chiều hướng đúng về ý nghĩa, khi người thừa kế qua đời, thì người con nhỏ hơn của quân chủ sẽ có cơ hội trở thành thừa kế, dù người thừa kế vừa qua đời vẫn còn hậu duệ đi nữa.

Trữ quân ở Đông Á

Các tên gọi

Bởi vì người thừa kế thường là con trai của vị Vua chúa đang trị vì, nên địa vị trữ quân tại khối quốc gia Đông Á thường được liên hệ qua tước hiệu, tức là Thái tử hoặc Thế tử. Tuy nhiên, người kế vị không nhất thiết lúc nào cũng là con trai của vị vua đang trị vì, mà có thể là chú bác hoặc cháu nội, hoặc là nhánh Nam duệ (男裔) được công nhận. Bởi vì lý do đó tước hiệu biểu hiện vị trí trữ quân ở Đông Á lại thường phụ thuộc vào thân phận của trữ quân đối với vị Vua đương triều, thường thấy nhất là dựa theo ba thế hệ:

  • Chú của Hoàng đế/ Vương được chọn làm người nối ngôi thì gọi là Hoàng thái thúc (皇太叔)/ Vương thế thúc (王世叔).
  • Em của Hoàng đế/ Vương được chọn làm người nối ngôi thì gọi là Hoàng thái đệ (皇太弟)/ Vương thế đệ (王世弟).
  • Cháu nội Hoàng đế/ Vương được chọn làm người nối ngôi thì gọi là Hoàng thái tôn (皇太孫)/ Vương thế tôn (王世孫).

Những cách gọi như thế nào cũng còn tùy chế độ cụ thể chứ không hoàn toàn bị bó buộc chỉ mấy trường hợp. Nếu bỏ qua xưng hô theo vai vế, vị trí kế vị của một Hoàng đế được gọi chung là các Hoàng trữ (皇儲), còn của Quốc vương gọi là Vương trữ (王儲). Tuy vậy, họ cũng có thể được gọi là Hoàng tự (皇嗣) hay Vương tự (王嗣), trong đó "Tự" có nghĩa là "kế thừa". Hiện tại, hoàng gia Nhật Bản công bố Thu Tiểu cung Văn Nhân Thân vương là trữ quân cho anh trai mình là Thiên hoàng Naruhito, ông không được gọi là "Hoàng thái đệ" mà được gọi với tôn xưng trung lập là Hoàng tự điện hạ (皇嗣殿下; こうしでんかKoshidenka).

Nền quân chủ Đông Á do không có quy định nữ giới thừa kế ngai vị, cho nên không có cách gọi nào tương đương. Thời kỳ Đường Trung Tông, An Lạc công chúa Lý Khỏa Nhi vận động cha mình để ngồi lên vị trí trữ quân và còn tự gọi là Hoàng thái nữ (皇太女), nhưng sau cùng ý kiến này bị bãi bỏ. Tại Việt Nam cuối thời nhà Lý, khi chỉ định Chiêu Thánh công chúa kế vị, Lý Huệ Tông chọn danh xưng là Hoàng thái tử (ám chỉ trữ quân) chứ cũng không dùng danh xưng Hoàng thái nữ. Nguyên văn trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau:"Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập Chiêu Thánh công chúa làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho".

Quy định lập trữ quân

Con kế thừa cha

Các quốc gia khối Đông Á như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam đều chịu quan niệm lập trữ quân tương tự Trung Quốc, đó là ưu tiên chọn phương thức "Con kế thừa cha", hơn nữa người con trai ấy thường là con trưởng xét theo thứ tự. Con gái về luật pháp không có quyền thừa kế ngai vị, tuy không ít các trường hợp ở cả ba quốc gia này có xuất hiện Nữ hoàng hoặc Nữ vương, thế nhưng việc nữ kế thừa phần nhiều là trường hợp cá biệt cụ thể hơn là một hệ thống thừa kế cố định.

Xã hội Trung Quốc cổ đại có chế độ kế tục gọi là Đích trưởng tử kế thừa chế (嫡長子繼承製), hay tiếng Anh gọi là "Primogeniture". Theo phương pháp này thì người con trai lớn nhất của vợ cả (Hoàng hậu, Vương hậu, Vương phi) được ưu tiên lập làm trữ quân. Tại quan niệm tông pháp ở Đông Á, vợ cả và các vợ lẽ nàng hầu (tức thiếp) có địa vị khác biệt, con trai của vợ cả đều được gọi là "Đích tử" (嫡子), trong đó những người con trai trưởng vợ cả được gọi là Đích trưởng tử. Trong khi đó, con trai do phi tần sinh ra đều ngang với con của vợ lẽ, đều được gọi là "Thứ tử" (庶子). Tuy nhiên, quy tắc "Đích trưởng tử kế thừa" này đôi khi cũng có triều đại không tuân theo, vì càng về sau thì trường hợp Đích tử còn sống đến khi vị Vua qua đời ngày càng ít, do vậy cũng lại có xuất hiện tình trạng Thứ tử lớn nhất - tức "Thứ trưởng tử" (庶長子) - được chọn làm trữ quân.

Trong lịch sử Đông Á thường ưu tiên lập Đích trưởng tử làm trữ quân, thế nhưng cũng không thiếu việc trữ quân lại là Thứ tử. Thân phận Thứ tử được chọn kế vị vẫn luôn dễ dàng gây mâu thuẫn, bởi vì ngay trong Nho giáo cũng có hai chủ trương:

  • Lập Đích lập Trưởng (立嫡立長): xuất phát từ Công Dương truyện, từ câu "Lập Đích dĩ Trưởng bất dĩ Hiền" (立嫡以長不以賢). Câu này ý nói cùng là Đích tử, thì ngôi trữ quân nên chọn Đích trưởng tử đảm nhiệm chứ không nên xem ai hiền năng hay không. Điều này phần nhiều xuất phát từ quan niệm "Huynh trưởng như cha" (長兄為父) trong đại đa số các quốc gia Đông Á. Bởi vì từ "lập Đích" cũng có nghĩa "lập Trữ", các triều đại sau thường chọn Thứ trưởng tử trong trường hợp không có Đích tử;
  • Lập Tử dĩ Quý bất dĩ Trưởng (立子以貴不以長): cũng xuất phát từ Công Dương truyện, câu này ý rằng nếu Đích tử không có mà phải chọn Thứ tử, thì nên chọn Thứ tử có mẹ xuất thân cao quý, không nên chỉ chọn Thứ trưởng tử. Điều này dựa vào quy tắc "Tử dĩ Mẫu quý" (子以母貴). Ngoài ra dưới thời Hán Chương Đế, việc Lưu Khánh được lập làm Thái tử cũng là một trường hợp "Lập Tử dĩ Quý" điển hình, vì trên Lưu Khánh còn có 2 người anh trai, Lưu Khánh cũng không có thân phận được mẹ cả là Đậu Hoàng hậu nuôi dưỡng, trong khi đó người mẹ là Tống Quý nhân có quan hệ bà con với Mã Thái hậu. Triều đại nhà Đường tương đối có nhiều trường hợp phá quy tắc, như Đường Cao Tông Lý Trị vì hai anh trai là Lý Thừa Càn cùng Lý Thái bị truất mà được lập, đặc biệt nhất là có trường hợp Đường Huyền Tông Lý Long Cơ vốn chỉ là Thứ tử, nhưng vì có công bình định chính biến mà "Có được Thánh đức" nên được chọn làm Thái tử, thay thế người anh cả Đích trưởng tử là Lý Thành Khí. Lại có trường hợp Đường Mục Tông tương đối đặc biệt, ông vốn là con thứ ba của Đường Hiến Tông và sinh mẫu ông Quách Quý phi - nguyên phối của Hiến Tông, song Quách thị không được lập làm Hoàng hậu do vậy Mục Tông không có thân phận "Đích trưởng tử", thay vào đó người anh cả khác mẹ của ông là Lý Ninh được chọn làm Thái tử. Sau khi Lý Ninh qua đời, Mục Tông mới được chọn làm Thái tử. Sau đó, Đường Văn Tông Lý Hàm đăng cơ sau khi anh trai Đường Kính Tông Lý Đam bị hại, con trai Lý Vĩnh chết đi, Văn Tông lại cho lập con trai của Kính Tông là Lý Phổ làm Thái tử. Từ sau Văn Tông, các vị hoàng đế triều Đường đều bị phế bị lập vì các hoạn quan cùng quyền thần, việc chọn trữ quân cũng không còn diễn ra, hoặc chỉ là cho có lệ. Triều đại nhà Tống có quy tắc Nho giáo chặt chẽ nên thường áp dụng "Đích trưởng tử thừa kế" cùng "Thứ trưởng tử thừa kế", dù cũng có trường hợp ngoại lệ như Triệu Nguyên Tá, con cả của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa và là anh cùng mẹ với Tống Chân Tông Triệu Hằng, bởi vì "Điên loạn" mà bị phế làm thứ dân, nên cũng mất quyền thừa kế.

Triều đại nhà Nguyên được xem là không có chính sách truyền vị điển hình, do căn cơ của họ thành lập từ liên minh các Đại bộ tộc Mông Cổ và dựa vào Đại hội Hốt lý lặc thai để chọn người thủ lĩnh. Kế nhiệm Mông Cổ Đế quốc là Hốt Tất Liệt vì không thông qua đại hội này mà Hãn vị của ông tại Mông Cổ gây tranh chấp. Sau khi thành lập triều Nguyên tại Trung nguyên, Hốt Tất Liệt cố ý lập con trai Đích trưởng tử là Chân Kim làm Hoàng thái tử, hi vọng áp dụng chế độ người Hán để định thế cục "Cha chết con nối" đối với chính thể triều Nguyên. Nhưng sau đó Chân Kim qua đời, các đời sau liền có trường hợp Thái tử mất sớm rồi anh em tranh vị, thế cục truyền vị ổn định mà Hốt Tất Liệt mong muốn không thể thực hiện. Trung kỳ triều Nguyên có Vũ Nhân chi ước (武仁之約), quy định hai hệ Nguyên Vũ Tông Hải Sơn cùng Nguyên Nhân Tông Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt thay nhau kế vị ngai vàng, sau đó Nhân Tông huỷ bỏ hiệp định, chính trường triều Nguyên lần thứ hai bước vào hỗn loạn.

Thời nhà Minh có lẽ là triều đại quy định văn bản rõ ràng nhất trong quy tắc thừa kế. Theo Hoàng Minh tổ huấn quy định:"Phàm triều đình không có hoàng tử, thì theo quy tắc em kế thừa anh. Cần lập người do Đích mẫu sinh ra, nếu phải chọn do Thứ mẫu sinh thì cần chọn con trưởng". Xét trong lịch sử, ngoại trừ sự kiện Minh Đại Tông Chu Kỳ Ngọc lên ngôi thay anh và Quốc bổn chi tranh (國本之爭) thời Minh Thần Tông Chu Dực Quân, thì nhìn chung nhà Minh chấp hành rất nghiêm túc tổ huấn. Sự kiện "Quốc bổn chi tranh" là một chuyện đặc biệt của triều Minh, bởi vì Hoàng hậu của Thần Tông không con mà Hoàng tử Chu Thường Lạc là "Thứ trưởng tử", theo Tổ huấn thì đáng được lập, nhưng Thần Tông thích Hoàng tam tử Chu Thường Tuân.

Triều đại nhà Thanh vốn ngay từ đầu đều không có chỉ định trữ quân, nên hai đời Nỗ Nhĩ Cáp Xích cùng Hoàng Thái Cực mới xảy ra đủ loại tranh đấu chính trị. Sau khi nhập quan, Thuận Trị Đế dùng hình thức "Di chiếu", lập con trai thứ ba là Hoàng tam tử Huyền Diệp (tức Khang Hi Đế) làm Hoàng thái tử khi lâm chung. Sau đó, Khang Hi Đế phá vỡ truyền thống của cha ông, tự mình chọn lập Nhị a ca Dận Nhưng làm Thái tử ngay từ nhỏ, cũng là trường hợp duy nhất. Sau thời Ung Chính Đế, triều đình đã áp dụng cách của Thuận Trị Đế khi trước, lập ra một chế độ dự bị trữ quân được gọi là Bí mật kiến Trữ chế (秘密建儲制). Lúc này vị Vua sẽ luận "Đức hạnh""Tài năng" trong các hoàng tử để lập làm trữ quân. Theo như truyền thống này, hoàng đế trước khi qua đời sẽ đem người được chọn làm Hoàng thái tử viết vào di chiếu, để sau bức biển "Chính Đại Quang Minh" (正大光明) trong Cung Càn Thanh. Khi hoàng đế qua đời, các Cố mệnh Đại thần sẽ lấy di chiếu ra công bố thiên hạ. Ngoại trừ sự kiện Càn Long Đế tiến hành thiện nhượng cho Gia Khánh Đế, thì triều Thanh từ Ung Chính Đế đến tận Hàm Phong Đế đều áp dụng chế độ này, sau đó chỉ lập Tự vì không còn hoàng tử.

Ở các quốc gia ảnh hưởng Trung Quốc như Việt Nam, Nhật Bản cùng Triều Tiên, quy tắc "Con kế thừa cha" vẫn thường là quy tắc chuẩn mực nhất, thế nhưng đôi khi tùy tình huống đặc biệt mà có biến động. Tại Nhật Bản, trước khi có quy tắc chuẩn mực từ "Hiến pháp", thì quy luật lập trữ quân của hoàng gia Nhật tương đối hỗn loạn. Lấy ví dụ từ tận thời Heian, có trường hợp Thiên hoàng Saga được cha mình là Thiên hoàng Kanmu chỉ định làm trữ quân tiếp theo và được viết vào "Di chiếu", nên anh trai ông là Thiên hoàng Heizei mới chịu lập làm Hoàng thái đệ, sau đó Thiên hoàng Saga lại quyết định lập con trai của anh mình là Cao Nhạc Thân vương làm Hoàng thái tử trước khi xảy ra biến cố Kusuko. Sau đó, Thiên hoàng Saga lại lập em trai khác mẹ Đại Bạn Thân vương làm Hoàng thái đệ, rồi sau khi nhượng vị thì Saga lại để cho con trai của chính mình (tức Thiên hoàng Ninmyō) làm Thái tử cho em trai, cứ vậy tiếp tục đời sau.

Tại Triều Tiên cùng Việt Nam, quy tắc "Con kế thừa cha" tương đối nghiêm ngặt. Còn phương pháp chọn "Đích", "Trưởng" hay "Hiền", trong khi Triều Tiên án theo triều Minh mà thực hiện thứ tự Đích-thứ rất nghiêm khắc, thế nhưng các triều Việt Nam thì lại tương đối nhiều biệt lệ. Triều đại nhà Đinh và Tiền Lê căn bản đều theo ý của hoàng đế, cá biệt nhà Lý có biểu hiện của việc "Bí mật lập Trữ" mà nhà Thanh thực hiện, như trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng trích lời Lê Văn Hưu nói về vấn đề này:"Nhà Lý phong cho các con mẹ đích đều làm tước Vương, các con mẹ thứ đều làm hoàng tử mà không đặt ngôi Hoàng thái tử. Đến khi nào vua ốm nặng mới chọn một người trong các con cho vào để nối nghiệp lớn. Truyền dần thành tục, không biết là ý thế nào". Sang đến nhà Trần, cả 4 đời hoàng đế đầu đều án theo "Đích trưởng tử kế thừa", như việc Trần Minh Tông suýt nhường cho con trai của mẹ đích là Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu, nhưng lại cũng có trường hợp Trần Nghệ Tông chọn em trai (Trần Duệ Tông) kế thừa. Từ Hậu Lê đến nhà Nguyễn, do thường các vị Vua chúa không lập Hoàng hậu, quy tắc "Trưởng tử kế thừa" là quy tắc ưu tiên. Trong ba trường hợp chính thức sách lập Thái tử trong lịch sử triều Nguyễn, chỉ có hai trường hợp là Đích trưởng tử thừa kế, chính là Anh Duệ Hoàng thái tử và Nguyễn Phúc Bảo Long.

Lập Tự kế thừa

thumb|[[Vua Đồng Khánh - một "dòng bên thờ tự" điển hình ở Việt Nam. Ông lên ngôi với tư cách là con của Vua Tự Đức.]] Đây là một vấn đề liên quan đến pháp độ và "Vai vế kế thừa" xảy ra khá thường xuyên và rất đặc thù ở các nền quân chủ Đông Á, không bao giờ xảy ra ở Châu Âu. Trường hợp này là khi hoàng đế không có con thừa kế nhưng vẫn muốn giữ chế độ truyền ngôi "Con kế thừa cha", thì sẽ bước vào giai đoạn phải chọn hậu duệ của nhánh khác làm con để nối vị và mang danh nghĩa nối tiếp dòng chính thống đang cai trị, đấy gọi là biện pháp Thừa tự (承嗣).

Dòng dõi quân chủ Đông Á ở mỗi đời Vua chúa, ngoại trừ người sẽ kế vị, thì các hoàng tử vương tử đều sẽ hình thành "Tiểu tông" (小宗) của dòng dõi Vua chúa trị vì (họ được gọi chung là "Tông thất" 宗室), mà dòng dõi kế thừa gọi là "Đại tông" (大宗) hay Đại thống (大統). Với hình thức "Thừa tự", người Tông thất được chọn trên thực tế phải mang danh nghĩa "Là con của vị Vua tiền nhiệm" thì mới có danh phận kế thừa, tương tự kiểu nhận con nuôi, cha mẹ tranh pháp lý mới khiến cho con nuôi có quyền thừa kế. Do vấn đề vai vế của "Thừa tự" trong dòng dõi, vị Vua ấy không được tôn xưng cha mẹ ruột theo danh phận con cháu, mà phải dùng thân phận "con cháu của vị Vua tiền nhiệm" để đối đãi với cha mẹ ruột. Và cũng bởi vì Đông Á xem trọng truyền thống thờ Tổ tiên, có truyền thống lập nên gian thờ Tổ tiên mà Hán ngữ gọi là "Từ đường" (祠堂), thì xưng hô của con cháu đối với hàng tổ tiên trong từ đường đều rất được nghiêm khắc coi trọng. Đối với các hoàng đế được chọn vì "Thừa tự" thì việc này cũng nghiêm trọng như vậy, việc xưng hô với hoàng đế mà mình chịu trách nhiệm thờ tự, cùng với việc xưng hô cha mẹ ruột ra sao, thông thường đều sẽ trở thành một đề tài bàn luận có quy mô được gọi là Xưng thân chi lễ (稱親之禮). Bởi vì thông qua chuyện này sẽ xác định quyền hạn thực tế của vị hoàng đế nhận trách nhiệm "Thừa tự", và trên hết là địa vị cha mẹ ruột của họ trong Từ đường - một thứ rất quan trọng với người Đông Á.

Thời Tây Hán, Xương Ấp vương Lưu Hạ cùng Hán Tuyên Đế Lưu Tuân là những trường hợp đầu tiên được chọn làm "Thừa tự", vào cung với tư cách là con nuôi của Hán Chiêu Đế. Sau đó vì "Cha ở vị cao, con là Thiên tử, thì dùng lễ tế như Thiên tử", cho nên cha ruột của Tuyên Đế là Lưu Tiến đã có thể được tôn làm "Hoàng khảo" (皇考), mẹ là Vương Ông Tu có thể làm "Hậu" (后), điều này là tiền lệ cho các hoàng đế kế tự thời Đông Hán như Hán An Đế đã có thể truy tôn cho cha và mẹ ruột.

Thời nhà Tống do tôn sùng Nho giáo bài bản, quy tắc "Xưng thân" cũng trở nên cực kỳ gắt gao, các hoàng đế được nhận là "Thừa tự" không thể truy phong cha ruột làm "Hoàng khảo" như thời Hán, mà ví dụ chính là khi bàn về lễ "Xưng thân" dưới triều Tống Anh Tông Triệu Thự. Khi ấy Tống Nhân Tông Triệu Trinh không con, nên Triệu Thự được chọn làm con thờ tự của Nhân Tông, sau khi lên ngôi chỉ có thể xem cha ruột Bộc An Ý vương Triệu Doãn Nhượng là "Hoàng bá" (皇伯), đến thời Tống Hiếu Tông Triệu Bá Tông nhập Tự thì chuyện này cũng y vậy theo lệ. Sang đến thời nhà Minh, có sự kiện Đại lễ nghị chính là thảo luận dâng tôn thế nào thời Minh Thế Tông Chu Hậu Thông, đối với cha mẹ ruột của ông là Chu Hữu Nguyên và Từ Hiếu Hiến Hoàng hậu. Sang thời nhà Thanh, hai vị hoàng đế thời kỳ cuối là Quang Tự Đế và Tuyên Thống Đế (Phổ Nghi) đều là con thừa kế từ dòng bên nhập qua, trong đó Quang Tự Đế lấy danh nghĩa là "Tự tử" của Hàm Phong Đế, còn Tuyên Thống là của cả Đồng Trị Đế lẫn Quang Tự Đế. Cha ruột của hai người, Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn cùng Thuần Thân vương Tái Phong, tuy do là cha đẻ mà được cất nhắc vào Quân cơ xứ rồi làm nhiếp chính, nhưng trong quy tắc tôn xưng thì cả hai đều chỉ có thể tiếp tục cúi đầu xưng thần với hoàng đế, dù cả hai là cha đẻ của hoàng đế.

Nền quân chủ ở Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam cũng đều có những trường hợp thừa tự này từ Trung Quốc. Tại Việt Nam, nhà Lý thời Lý Nhân Tông và nhà Nguyễn thời Vua Tự Đức là hai ví dụ điển hình nhất. Khi ấy Lý Nhân Tông không có con trai, nên đã chọn cháu gọi bằng bác là Lý Dương Hoán làm con nối ngôi, tức Lý Thần Tông. Còn Vua Tự Đức đã nhận tới 3 người từ dòng bên, và cả 3 đều từng làm hoàng đế, ấy là Vua Dục Đức, Vua Kiến Phúc và Vua Đồng Khánh. Cá biệt có trường hợp Dương Nhật Lễ thời Trần Dụ Tông. Vì đã được hoàng đế nhận làm con và cho kế thừa, toàn bộ những người ở trên xét theo pháp lý đều không còn là con của cha mẹ ruột nữa, mà phải gọi cha mẹ ruột theo vai vế với tư cách là con của hoàng đế. Lấy ví dụ về Dương Nhật Lễ, ông vốn là con của anh trưởng Dụ Tông là Trần Nguyên Dục, khi nhận chỉ lên ngôi phải gọi Nguyên Dục là "Hoàng thái bá" vì Nguyên Dục là anh của "Tự phụ", tức chỉ đến Trần Dụ Tông. Chính những quy tắc phức tạp, phải có tôn ti trong việc tấn tôn vị hiệu này mà sử gia Lê Văn Hưu đã chỉ trích việc Lý Thần Tông tôn cha đẻ Sùng Hiền hầu làm Thái thượng hoàng. Khi ấy, Lý Thần Tông đã được Lý Nhân Tông chọn làm con thừa tự, phong làm Thái tử để kế vị, thì Thần Tông chỉ nên công nhận Nhân Tông mà thôi, nếu Thần Tông lại tôn cha ruột Sùng Hiền hầu thêm nữa thì lại thành không đúng quy tắc tôn xưng.

Nguyên văn nhận xét của Lê Văn Hưu:

Còn tại Nhật Bản, nền quân chủ mấy nghìn năm này tuy có thời gian bị khống chế bởi người họ Fujiwara và Mạc phủ, song cơ bản vẫn tôn trọng quy tắc cha truyền cho con nếu có thể cho gia đình Thiên hoàng, cho nên nếu Thiên hoàng không con thì có thể lấy con cháu của dòng khác làm Dưỡng tử (養子) để truyền ngôi. Vai vế của bản thân Thiên hoàng với người thừa kế trong lịch sử là một dạng địa vị, bởi vì Nhật Bản không có chế độ Tông miếu Từ đường giống như ba quốc gia đồng văn còn lại nên chuyện xưng hô Tông phái không phải là vấn đề mấu chốt, việc này khiến "Vai vế người kế vị" của Thiên hoàng lại có ảnh hưởng quyền lợi trực tiếp của Thiên hoàng.

Trong suốt chế độ Viện chính (院政; Cloistered rule) của thời kỳ Heian, nhằm bảo vệ Phụ quyền (父権) của các Thiên hoàng sau khi đã thoái vị, các anh em trai của Thiên hoàng cũng có thể trở thành "Dưỡng tử" của đương nhiệm Thiên hoàng và được chọn làm trữ quân với danh xưng Hoàng thái tử. Việc này giúp vị Thiên hoàng thoái vị ấy thông qua "Phụ quyền" mà vẫn giữ địa vị tuyệt đối với tư cách "Cha của Vua", từ đây mới có đủ danh phận để khống chế triều chính. Ví dụ sự việc "Dưỡng tử" là em của Thiên hoàng chính là trường hợp của Thiên hoàng Sutoku. Khi ấy Sutoku bị cha là Thiên hoàng Toba bức ép thoái vị nhằm để con trai sủng phi của Toba là Thể Nhân Thân vương lên ngôi. Trước đó, Thiên hoàng Sutoku đã đem em trai khác mẹ Thể Nhân Thân vương vào cung và cho Trung cung của ông nuôi làm "Dưỡng tử", do đó Sutoku danh chính ngôn thuận lập em trai làm Hoàng thái tử thừa kế của mình. Nhưng trong chiếu thư thoái vị của Thiên hoàng Sutoku được soạn bởi Thiên hoàng Toba, Thể Nhân Thân vương lại được tuyên bố là "Hoàng thái đệ", tức lấy danh nghĩa là "em trai" mà không phải "con trai" để lên ngôi, hoàn toàn trái mong muốn của Thiên hoàng Sutoku. Cùng là vấn đề xưng hô, nhưng mối quan tâm của Nhật Bản lại là quyền lợi có được từ xưng hô, chứ không phải là quy tắc tôn xưng vai vế trong Tông miếu. Việc Tân nhiệm Thiên hoàng là "Hoàng đệ" đã dẫn đến việc Thiên hoàng Sutoku hoàn toàn không có chính danh để tiến hành ảnh hưởng lên Tân nhiệm Thiên hoàng và cha của hai người, Thiên hoàng Toba, khi ấy tiếp tục nắm giữ đại quyền.

Trường hợp kế nhiệm khác

thumb|Hi Thành Thân vương, "Hoàng thái tử" dưới thời anh trai [[Thiên hoàng Chōkei, sau lên ngôi thành Thiên hoàng Go-Kameyama.]] Ngoài quy tắc "Con kế thừa cha", rất nhiều nền quân chủ vì đủ loại lý do mà cũng hình thành các lệ truyền ngôi hoặc lập trữ quân khác, trong đó đáng kể nhất là để cho người kế thừa thuộc thân phận: Đồng bối (同輩; "anh em trai"), Trưởng bối (長輩; "chú bác") và Vãn bối (晚輩; "cháu chắt"). Trong đó, hai phương thức chọn "Đồng bối" và "Trưởng bối" thường gây tranh cãi dữ dội nhất, chủ yếu vì sẽ khiến hệ thống truyền vị xảy ra hỗn loạn.

Từ tận thời kỳ Tam Đại, bên cạnh "Con kế thừa cha" thì ngai vị cũng có lệ Huynh chung đệ cập (兄终弟及), tức anh chết thì em trai kế thừa, nguyên nhân của việc này thông thường là khi các con của vị Vua đang trị vì còn quá nhỏ, hoặc là vị Vua ấy không có con cháu. Từ thời Trọng Đinh của nhà Thương, anh chết em kế tục diễn ra thường xuyên khiến tranh cãi ngai vị rất rắc rối. Từ Vũ Đinh về sau, tuy cũng còn có việc em trai kế vị thế nhưng từ đây thành lập chế độ con kế thừa cha, nhà Chu tiếp sau đó cũng tiến hành rạch ròi chế độ truyền vị cha chết con nối. Nhưng dù vậy, ngẫu nhiên cũng có chế độ quân chủ lại chọn anh chết em kế tục, như Tống Tuyên công nhường cho em trai là Tống Mục công lên ngôi, gây ra loạn 5 đời của nước Tống. Từ đời Hán trở đi, "Anh chết em kế thừa" không được khuyết khích, nhưng bản thân triều Hán cũng suýt đi theo vết xe đổ của nước Tống. Khi ấy Hán Cảnh Đế Lưu Khải dưới áp lực của mẹ là Đậu Thái hậu đã từng có ý định chọn em cùng mẹ là Lương vương Lưu Vũ làm trữ quân, mà Đậu Thái hậu ngoài việc sủng ái Lương vương ra thì còn lấy lý do là Cảnh Đế đã lớn mà các hoàng tử còn nhỏ, không thể đảm việc quốc gia. Một ví dụ nổi tiếng khác chính là trường hợp của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa. Theo Tống sử, Thái Tông đã dẫn lại lời của mẹ, Chiêu Hiến Thái hậu Đỗ thị, sợ triều Tống sẽ lại như Hậu Chu diệt vong là vì "Ấu chúa làm Vua" nên bắt Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận chọn em trai kế vị. Đến triều đại nhà Minh, bản thân "Hoàng Minh tổ huấn" của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cũng chỉ ra:"Trong cung không có hoàng tử, thì theo lệ huynh chung đệ cập". Vì lý do này mà khi Minh Vũ Tông Chu Hậu Chiếu qua đời, em họ ông là Minh Thế Tông Chu Hậu Thông được rước vào làm "Thừa tự" cho Đại tông, và Thế Tông đã dựa vào "Tổ huấn" nói rõ mình kế vị anh họ Vũ Tông với tư cách "Em kế thừa anh" chứ không phải con thừa tự của Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường, đây là nguyên nhân dẫn đến "Đại lễ nghị" nổi tiếng. Danh vị cho trường hợp em trai kế vị, với tiền lệ từ Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung, được gọi là "Hoàng thái đệ", Triều Tiên do vậy cũng đã sử dụng danh xưng Vương thế đệ (왕세제Wangseje) để gọi các trữ quân là em trai quốc vương.

Tại các quốc gia đồng văn khác, việc "Anh chết em kế thừa" xảy ra đại đa số cũng là các quyết định lâm thời, hầu hết là đủ loại nguyên do cùng cách thức. Triều Trần của Việt Nam là triều đại đầu tiên ghi nhận việc chọn em trai là trữ quân dưới thời Trần Nghệ Tông, nhưng Trần Duệ Tông khi ấy được lập làm "Hoàng thái tử" mà không phải "Hoàng thái đệ", chưa rõ Nghệ Tông đối với Duệ Tông có phải vì muốn giữ "Phụ quyền" mà quyết định như vậy hay không. Sang đến triều Hậu Lê còn có Lê Túc Tông trước khi lâm chung chọn anh thứ là Hoàng nhị tử Lê Tuấn, tức Vua Uy Mục, đây là "Em chết anh kế thừa" hết sức hiếm gặp đồng thời cũng là lâm chung lựa chọn nên không có sách lập chính thức. Triều đại Triều Tiên của Hàn Quốc chỉ có duy nhất một trường hợp, khi Cảnh Tông không con, đã định em trai Diên Nhưng quân làm trữ quân để kế thừa Đại thống. Còn tại Nhật Bản, do có chế độ Viện chính từ thời kỳ Heian làm tiền lệ, cộng thêm hoàng quyền ngày một suy thoái, danh hiệu "Hoàng thái tử" được xem là một địa vị đặc thù của trữ quân và thông thường danh hiệu này vẫn được giữ nguyên mặt chữ Hán, dù cho người kế vị của Thiên hoàng là em trai như Hi Thành Thân vương thời Thiên hoàng Chōkei, hoặc thậm chí là cháu trai như Anh Nhân Thân vương thời Thiên hoàng Go-Sakuramachi.

Trường hợp Vua chúa chọn cháu làm trữ quân, về bản chất là một dạng "Con kế thừa cha" nên thường không gây tranh cãi lớn. Thông thường đi đến việc chọn cháu làm trữ quân đều là cháu nội của vị Vua đương triều và là con trai của trữ quân quá cố, nổi tiếng nhất có trường hợp Minh Huệ Đế được ông nội Minh Thái Tổ chọn làm kế thừa với danh xưng biểu hiện cho vị trí này là Hoàng thái tôn. Cũng có trường hợp trữ quân vẫn còn sống mà đã cho con của trữ quân nhận danh hiệu trữ quân kế nhiệm, ví dụ như Đường Cao Tông Lý Trị lập Đích trưởng tôn Lý Trọng Nhuận làm Hoàng thái tôn, hay như Minh Thành Tổ Chu Đệ lập Đích trưởng tôn Chu Chiêm Cơ làm Hoàng thái tôn, dù thân sinh của hai vị Thái tôn này đều còn sống. Ở các quốc gia đồng văn khác, lập con của trữ quân để làm người kế vị cũng có xảy ra, đặc biệt là một nước trọng đích-thứ cùng vai con trai cả như nền quân chủ Triều Tiên. Ở Triều Tiên, vấn đề "Trưởng tử kế thừa""Con kế thừa cha" gắn bó chặt chẽ với nhau, ban đầu Triều Tiên cũng theo lệ Minh Thành Tổ nên sớm định vị hiệu cho người thừa kế của trữ quân, Triều Tiên Thế Tông đã cho lập Đích trưởng tôn là Lý Hoằng Vĩ làm Vương thế tôn (왕세손Wangseson). Từ sau đó, Triều Tiên chỉ quyết định dùng "Thế tôn" cho vị trí trữ quân nếu vai vế là cháu nhà vua, như Anh Tổ chọn Đích tôn Lý Toán. Tuy nhiên, việc chọn trữ quân là cháu nội cũng sẽ được suy xét cẩn trọng nếu quốc vương vẫn còn hậu duệ, ví dụ như trường hợp con trai của Thế Tổ là Ý Kính Thế tử qua đời sớm, và dù Thế tử đã có 2 con trai nhưng Thế Tổ vẫn chọn con thứ là Hải Dương Đại quân trở thành Thế tử và sau đó đăng cơ. Bên cạnh đó là vấn đề vai vế, Vương thế tôn Lý Toán kế thừa vị trí của Anh Tổ lại lấy tư cách là con của người con cả đã mất trước đó của Anh Tổ, Hiếu Chương Thế tử, mà không lấy tư cách con của cha ruột Tư Điệu Thế tử, cho nên khi Lý Toán lên ngôi chỉ truy tôn tự phụ là Hiếu Chương Thế tử làm Chân Tông mà không thể truy tôn cha ruột của mình.

Tại Việt Nam, trước thời Hậu Lê thì các triều khác không xảy ra chuyện trữ quân mất sớm, nên việc chọn lựa cháu của vua kế nhiệm vị trí trữ quân chưa được đề cập. Vào thời Hậu Lê thì chuyện này xảy ra lần đầu tiên với ngai vị Vương của chúa Trịnh, khi Trịnh Cương kế nhiệm ông cố Trịnh Căn. Ngai vị họ Trịnh khi ấy được xem là "Bán quân chủ", các con trai và người kế vị của chúa Trịnh dù là trữ quân hay không thường đều thường thụ phong tước Công và chức vụ, ít khi định riêng cách gọi "Thế tử", trường hợp Trịnh Cương trước khi lên ngôi Chúa thì chỉ được phong làm "Tấn Quốc công", sau đó thụ tước "An Đô vương" để kế nhiệm ông cố. Tiếp sau đó, ngai vị của vua Lê cũng có Lê Chiêu Thống dưới thời ông nội là Lê Hiển Tông được chọn làm trữ quân, Đại Việt sử ký tục biên chép danh xưng của Lê Chiêu Thống khi ấy là Hoàng tự tôn (皇嗣孫), trong khi Cương mục ghi chép là Hoàng thái tôn. Vào triều Vua Gia Long thời Nguyễn, Anh Duệ Hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh qua đời và có lưu lại con trai, các quan trong triều đình suy xét việc Minh Thái Tổ khi trước mà kiến nghị nhà vua lập con của Thái tử Cảnh là Đích tôn Nguyễn Phúc Mỹ Đường (khi ấy gọi là "Hoàng tôn Đán"). Cuối cùng, nhà vua quyết định "Con kế thừa cha" khi chọn em của Thái tử Cảnh là Hoàng tử Đảm, và đây cũng là lần cuối cùng lịch sử Việt Nam đề cập việc chọn lựa "Cháu của Vua" cho vị trí trữ quân.

Chỉ dụ của Vua Gia Long năm ấy (1815) có nói rõ như sau:

Bên cạnh việc "Huynh chung đệ cập", các vị Vua cũng chọn chú bác của mình làm trữ quân và đây là phương thức "lập Trữ" gây tranh cãi nhất, nguyên nhân cũng là vì sẽ thay đổi thứ tự truyền đời của chi Đại tông - một chuyện cấm kị đối với Nho giáo. Lịch sử đầu tiên đề cập vấn đề này chính là thời kỳ nhà Đường, dưới thời kỳ lũng đoạn của Đường Vũ Tông Lý Viêm, ông đã chọn chú của mình là Quang vương Lý Di làm "Hoàng thái thúc". Việc chọn chú bác làm trữ quân luôn là mầm móng đại loạn, hơn nữa gây khó xử trong vấn đề truyền vị, triều đại nhà Liêu dưới thời Liêu Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ đã có Gia Luật Trọng Nguyên làm ví dụ, vì trước đó dưới triều Hưng Tông thì Trọng Nguyên đã giữ vị trí Hoàng thái đệ, sau khi Đạo Tông lên ngôi cũng chỉ sửa làm Hoàng thái thúc, dẫn đến việc Trọng Nguyên muốn đoạt vị mà nổi loạn.

Ngoài ra, cũng có các trường hợp kế nhiệm không với tư cách có quan hệ với vị Vua tiền nhiệm, tức là không được chỉ định lập làm trữ quân hoặc với tư cách Tự tử, thông thường nguyên nhân là do chính trị biến động hoặc quần thần chủ trương, trường hợp đáng kể có Hán Văn Đế Lưu Hằng. Sau loạn chư Lã, Văn Đế được đại thần triều Hán tôn làm Hoàng đế, do đó Hán Văn Đế kế vị anh trai Hán Huệ Đế Lưu Doanh mà không mang tư cách trữ quân, không mang tư cách thờ tự anh trai lẫn không có di chiếu được kế vị. Lúc này do không có vấn đề về "Xưng thân chi lễ" cho nên mẹ của Văn Đế là Bạc Cơ thuận lợi được tôn làm Hoàng thái hậu. Tại Việt Nam có triều đại Hậu Lê xảy ra chuyện này, khi Lê Tương Dực lật đổ Đường huynh là Lê Uy Mục và tự lập, hoàn toàn không qua kế thừa lập Trữ. Sau đó dòng dõi Lê Thái Tổ tận diệt dưới thời Lê Trung Tông, do đó nhánh Hoằng Dụ vương Lê Trừ - anh của Lê Thái Tổ - là Lê Anh Tông được Trịnh Kiểm đưa lên ngôi. Trường hợp của Lê Anh Tông cũng không thông qua trữ quân, thậm chí cũng không như Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú nhận Hán Nguyên Đế Lưu Thích làm Tự phụ, Anh Tông trực tiếp kế thừa ngai vị từ Trung Tông, cho nên Anh Tông mới có thể truy tôn cha ông mình thụy hiệu Hoàng đế và miếu hiệu (cha của Anh Tông là Lê Duy Khoáng được truy tôn làm "Hiếu Tông Nhân Hoàng đế"), trong khi Quang Vũ Đế do nhận Nguyên Đế làm Tự phụ nên chỉ truy tôn cha ông là Lưu Khâm làm "Hoàng khảo", không có thụy hiệu và miếu hiệu chính thức, cũng không có được tôn xưng Hoàng đế.

Sách lập cùng Phế trừ

Việc chọn lựa trữ quân, bất kể ở các quốc gia xưng Đế như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản hay xưng Vương như Triều Tiên, tất cả các triều đại đều quy định lễ gia phong tước vị chính thức cực kỳ lớn. Trong tất cả lễ gia phong tước vị dành cho các thân phận dưới Vua chúa, chỉ có lễ phong tước cho Chính thất và trữ quân là dùng chữ Lập (立), với ý nghĩa "dựng lên" một địa vị duy nhất hoặc độc nhất có tầm quan trọng. Việc gia phong trữ quân là trọng đại, việc thay đổi trữ quân hoặc bỏ đi trữ quân cũng đều là chuyện đại sự, chữ Hán gọi là Phế trữ (廢儲) hoặc Dịch trữ (易儲), có việc "dựng lên" thì khi bỏ đi cũng thành là "phế dời", cực kỳ khó khăn.

Các triều đại Đông Á đều quy định hết sức bài bản khi gia phong tước vị, ngoại trừ nhận được Ấn (印) hoặc Bảo (寶) được ghi tên tước vị của người đó, thì người được ban tước vị còn có các loại Sách (冊) làm từ ngọc hay vàng, trên đó đều ghi các lời dụ rõ ràng từ Vua chúa lý do chọn người nào làm trữ quân, đồng thời là một bảo chứng cho toàn bộ quốc gia, khi gia phong có thể không được nhận Ấn bảo, nhưng "Sách" thường là thứ bắt buộc để chứng thực việc được gia phong. Đối với tất cả triều đại Đông Á, việc lập trữ quân là một lễ lớn gọi là Đại điển (大典), do vậy thông thường đều dùng "Bảo" cùng "Sách" trong Lễ gia phong, cũng vì vậy mà trong các sách chữ Hán thì việc lập trữ quân được miêu tả bằng các từ như Sách Thái tử (册太子), Sách lập Thái tử (冊立太子), Sách lập Trữ tự (冊立儲嗣) hay Sách lập Đông cung (冊立東宮), cá biệt Nhật Bản có cách gọi Rittaishi no Rei (立太子の礼; りったいしのれい). Bởi vì việc chọn trữ quân là chuyện trọng đại, lễ nghi của gia phong trữ quân đều phải có trình tự kính cáo Tổ tiên trong các tòa Tông miếu của các vị Vua chúa, việc này cùng với đạo lý "Phụng sự Tông miếu" như chọn Chính thất, trong khi gia phong thân vương hay phi tần đều không cần qua chuyện kính cáo Tổ tiên trọng đại như thế này. Sau khi có gia phong chính thức, thì chính là việc ban chiếu cáo cho toàn bộ quốc gia biết chuyện chọn lập trữ quân, và dựa vào tờ tuyên cáo cho thiên hạ mà danh vị của trữ quân mới được xác định chính thức.

Cũng như việc chọn lập trữ quân, việc tiến hành phế bỏ trữ quân cũng đều cần trình tự rạch ròi, kính cáo Tông miếu lý do phế bỏ, đồng thời quan trọng nhất vẫn cần ra chiếu chỉ tuyên bố khắp quốc gia. Bản thân Lê Thái Tông khi chọn Lê Nghi Dân cũng rất không rõ ràng, gần như còn chưa tiến hành lễ Sách lập, tuy nhiên khi ông phế bỏ mẹ của Nghi Dân là Dương Thị Bí và quyết định bỏ đi vị trí Thái tử của Nghi Dân, ông vẫn chiếu cáo đạo dụ khắp thiên hạ. Và vào cùng năm khi chọn Lê Nhân Tông Bang Cơ làm Thái tử, ông liền cho truyền đạo dụ ngay trong cùng năm:

Lại lấy ví dụ về sách lập Thái tử thời Nguyễn, Vua Gia Long sau khi quyết định chọn Hoàng tứ tử Đảm (Vua Minh Mạng) làm Hoàng thái tử vào năm thứ 14 (1815), thì sang năm thứ 15 (1816), Hoàng tứ tử được chính thức làm lễ Sách lập làm Hoàng thái tử. Trích từ Đại Nam thực lục, trình tự lễ Sách lập có:

Vị trí trong triều

Vì là người sẽ kế vị, khác biệt với các hoàng tử cùng vương tử được mở phủ riêng ngoài cung, nơi ở của trữ quân thường được đặt ở phía Đông của cung đình trong kinh thành nên thường được gọi là Đông cung (東宮) hoặc Đông triều (東朝), vì lý do này mà Thái tử ở Đông Á còn được gọi là "Đông cung Thái tử". Do là cung điện của trữ quân, nên đôi khi nơi ở của thái tử cũng được gọi là Trữ cung (儲宮) hay Trữ vi (儲闈). Ở thuyết ngũ hành, hướng Đông thuộc hệ Mộc, màu "Thanh", xét Tứ quý thì thuộc mùa xuân, nên "Đông cung" đôi khi cũng được gọi một cách né tránh là Thanh cung (青宮) hay Xuân cung (春宮).

Địa vị của trữ quân vào thời xưa, dựa vào tên gọi "Trữ nhị" cũng có thể hiểu là tôn quý chỉ dưới vị Vua chúa trị vì của một quốc gia, do đó thế lực của trữ quân có thể tạo thành một chính thể quyền lực tương tự với Vua chúa. Khi xếp vào trình tự ưu tiên, trữ quân luôn ở dưới Vua chúa, do vậy trữ quân dĩ nhiên được xếp trên các vương công vốn là anh em hoặc chú bác của Vua chúa. Trong nơi ở của trữ quân là Đông cung, cũng được thiết kế hết sức bài bản khi được thiết đặt các chức quan hầu việc tương tự hệ thống quan viên ở triều đình và Phủ đệ của các thành viên khác. Quy mô thiết đặt cơ sở hạ tầng cũng như nhân lực tại trữ quân, nếu so với triều đình thì đã được thu nhỏ lại vì vị trí trữ quân ở dưới Vua chúa, thế nhưng lại vượt xa Phủ đệ của hoàng tử cùng vương tử bình thường vì trữ quân là người kế vị trong tương lai. Các quan viên chủ yếu nhận nhiệm vụ về giáo dục trữ quân, nên thực tế không có quyền hạn đáng kể, nhưng nếu trữ quân kế vị thì những quan viên này sẽ là những người hàng đầu được bổ nhiệm các vị trí trọng yếu trong hệ thống chính trị. Ngoài ra, trong Đông cung cũng có các hoạn quan, nữ quan, và một toán Túc vệ được chỉ định... tất cả đều án theo mô hình thu nhỏ của cung đình mà bố trí, phục vụ sinh hoạt của trữ quân và gia quyến. Vì là người sẽ kế vị nên mũ áo, lễ nghi của trữ quân cũng khác biệt với các hoàng tử cùng vương tử khác, đồng thời lại thường là bản thu nhỏ một chút án theo quy chế vốn có của Vua chúa.

Cũng bởi vì địa vị nhạy cảm, trong lịch sử rất nhiều Vua chúa cùng trữ quân của mình mâu thuẫn, đây cũng là lý do khiến nhiều trữ quân dễ dàng bị phế truất hoặc bị uy hiếp đến nỗi tạo phản, điển hình nhất là Lệ Thái tử Lưu Cứ thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt, do phát sinh mâu thuẫn cùng gian thần Giang Sung mà dấy cả binh lính muốn ép Vũ Đế thoái vị, cuối cùng con cháu bị hại thảm. Bên cạnh đó, cũng vì ước mong có được vị trí trữ quân, rất nhiều hoàng tử cùng vương tử trong lịch sử tính toán lẫn nhau mà cạnh tranh, đển hình nhất chính là sự kiện Cửu vương đoạt đích (九王奪嫡) thời kỳ cuối của triều đại Khang Hi.

Bên ngoài Đông Á

Tại Châu Âu

Khái niệm -apparent cùng -presumptive

Ở các nền quân chủ theo Cơ Đốc giáo tại Châu Âu, vấn đề kế vị rất không ổn định và thường xuyên có thay đổi về hôn nhân và khả năng sinh hạ người thừa kế, cho nên "trữ quân" không phải lúc nào cũng là con của vị Vua đương nhiệm, mà có một nửa là anh em chú bác hay thậm chí là họ hàng trong gia tộc dựa theo quy định kế vị mà Nghị viện hay cơ quan Hành pháp của quốc gia ấy quy định.

Bởi vì lý do chính trị, nền quân chủ tại Châu Âu đa phần tách bạch giữa "Thần quyền" từ Giáo hội, "Pháp quyền" từ Nội các chính phủ và "Quân quyền" từ ngai vàng, cả ba yếu tố này thường xuyên chạm trán nhau nên quy định kế vị tại Châu Âu cũng hết sức đặc biệt. Trong ba yếu tố thì "Pháp quyền" cùng "Quân quyền" là hai yếu tố chính yếu, bởi vì luật lệ kế vị của Châu Âu đều phải qua chiếu chỉ lập pháp, rất nhiều trường hợp bản thân ý định của Vua chúa hoàn toàn bị cơ quan lập pháp phản đối, hay thậm chí là dẫn đến nội chiến. Các cơ quan lập pháp này thường là từ các Nghị viện (Parliament), mà thành viên Nghị viện thường là các quý tộc chư hầu có địa vị trong quốc gia, thậm chí là thành phần Giám mục đại diện cho "Thần quyền" cũng được tính vào nhóm này, còn một nhóm khác là các luật sư và chính khách. Khác với Đông Á lựa chọn trữ quân là dựa vào ý niệm của Vua chúa là chính, thì Châu Âu do có sự phân bố quyền lực đặc biệt như vậy nên thường có một thứ gọi là Danh sách kế vị (Line of succession), một danh sách được Nghị viện công nhận, sẽ ấn định sẵn toàn bộ quyền kế vị cho thành viên của dòng dõi Vua chúa đối với ngai vàng của quốc gia ấy. Ví dụ khá nổi tiếng là sự kiện Vua James VI của Scotland kế vị Nữ vương Elizabeth vì là hậu duệ của Margaret Tudor - chị gái của Henry VIII của Anh, thông qua đạo luật thừa kế được phê duyệt bởi Nghị viện.

Đây cũng là lý do mà ở Châu Âu lại có hai kiểu nói về trữ quân:

"Heir apparent": có nghĩa "Người kế thừa ấn định". Những người này chắc chắn sẽ kế vị theo pháp luật do Nghị viện công bố và không thể bị thay đổi, đây cũng có thể gọi là trữ quân chính thức. Thông thường các "Heir apparent" đều sẽ có tước vị chư hầu cố định giống như các tước hiệu quý tộc khác, như tước hiệu Thân vương xứ Wales là dành cho các "Heir apparent" của ngai vàng Anh kể từ thời kỳ Edward I.

"Heir presumptive": có nghĩa "Người kế thừa lâm thời". Cũng bởi vì Châu Âu dựa vào lập pháp kế vị, nên trong một thời điểm một vị Vua cai trị đều sẽ có một "Danh sách kế vị" hiện hữu, phòng khi nhà vua đang tại vị chưa kịp ấn định người thừa kế. Lúc này, người đứng đầu danh sách được gọi là "Heir presumptive", thường sẽ được xem là người kế vị, nhưng bởi vì họ chưa được công bố chính thức trở thành "Heir apparent" nên họ chưa được gọi là trữ quân. Trong trường hợp này, nếu một người khác trong dòng dõi nhà vua được sinh ra và có quyền kế vị cao hơn, thì người này ngay lập tức mất đi quyền kế vị.

Khác với Đông Á quy định rõ khác biệt giữa "Sách lập" dành cho trữ quân và "Sách phong" dành cho tước vị bình thường khác, lễ phong tước cho các "Heir apparent" tại Châu Âu được gọi là Investiture và nó chỉ là một dạng lễ phong chức vụ, bất kì ai có địa vị quý tộc hoặc chức vụ quan trọng cũng đều có thể hưỡng lễ thụ phong tương đương. Ngoài điều đó ra, các "Heir apparent" tại Châu Âu được hưởng quyền ưu tiên hơn tất cả hoàng tử cùng vương tử lẫn các quý tộc khác trong triều đình, điều này là do "Quân quyền" từ ngai vàng ảnh hưởng. Tuy nhiên, ý thức về quyền lợi của "Heir apparent" khiến một số quốc gia quyết định nâng địa vị của người thừa kế tương ứng với Đồng quân vương, tức là khiến họ có quyền trị vì thực tế đối với nền chính trị của quốc gia bên cạnh vị Vua chúa đương nhiệm, như Tiểu vương Henry thời Henry II của Anh, tước vị Vua La Mã Đức của Thánh chế La Mã hoặc Tiền Cung vương chúa dành cho các Uparaja của khối Đông Nam Á.

Cũng bởi vì bị kẹp giữa ba thế lực, thông thường các "Heir apparent" một khi đã được gia phong thì hầu như không thể thay đổi, trường hợp thay đổi "Heir apparent" thường là do vị Vua chúa ấy bị mất ngai vàng, chính phủ của quốc gia sụp đổ hoặc bản thân "Heir apparent" đó đã qua đời.

Yếu tố chọn người kế vị

thumb|Sơ đồ "Cận hệ kế thừa" điển hình của Châu Âu, trong trường hợp vẫn công nhận quyền của nữ. Số (1) bị gạch chéo là người đang có quyền ưu tiên nhất, sau đó là (2) và cuối cùng là (6). Hình vuông là nam, hình tròn là nữ, màu xám là đương nhiệm mà màu đen là đã qua đời.

Tuy cách thức có khác, nhưng nền quân chủ Châu Âu cũng rất coi trọng phương pháp thừa kế "Con kế thừa cha" như các vương triều tại Đông Á, tuy nhiên phương pháp này lại không phải là phương pháp duy nhất để ấn định người thừa kế, lý do cũng bởi vì quyền lợi từ ngai vàng tại Châu Âu lại được đánh giá dựa trên "giá trị thực quyền" của dòng họ hơn là giá trị Tổ tông như Đông Á, do đó vấn đề kế tục tại Châu Âu chỉ cần là "Dòng dõi nhà vua" chứ không cần phải theo thứ tự truyền đời. Cũng vì vậy, bên cạnh "Cha truyền con nối", phương pháp kế vị tại Châu Âu còn có "Cận hệ kế thừa", hay tiếng Anh còn gọi là"Proximity of blood". Thông thường, phương pháp "Cha truyền con" đều ấn định quyền "Con trưởng ưu tiên kế thừa" hay tiếng Anh còn gọi là "Primogeniture", kèm theo đó là quyền của "Đích duệ kế thừa" hay "Per stirpes".

Phương pháp ưu tiên con trưởng tại Châu Âu là giữ quyền cho con trưởng kèm toàn bộ hậu duệ của con trưởng, nếu con trưởng qua đời thì quyền kế vị sẽ truyền cho con cháu con trưởng, chỉ khi toàn bộ nhánh con trưởng không còn hậu duệ thích hợp để kế thừa thì quyền kế thừa mới dành cho người em và hậu duệ, mà người em này phải là người em lớn tuổi nhất trong số các người em còn lại. Phương pháp này trong tiếng Anh được gọi là "Per stirpes", tương tự với việc truyền cho Đích tôn - con trai Đích lớn của Đích trưởng tử trong văn hóa Đông Á vậy. Trong khi đó, phương pháp "Cận hệ kế thừa" có xu hướng trái ngược với "Đích duệ kế thừa" vì phương pháp này lại chỉ tính quyền kế vị của một thế hệ, tức chỉ công nhận quyền kế thừa của người thừa kế và anh chị em cùng thế hệ với người đó. Ví dụ như, khi người có quyền thừa kế qua đời và không có hậu duệ, mà người em lớn nhất cũng đã chết nhưng lưu lại hậu duệ, trong hai sự chọn lựa giữa "Người cháu lớn nhất" cùng "Người em duy nhất còn lại" thì phương pháp này ưu tiên chọn người em hơn là người cháu. Việc thành lập phương pháp "Cận hệ kế thừa" này cùng với "Đích duệ kế thừa" luôn xảy ra tranh chấp, cả hai đều là phương pháp có tính hợp pháp cao, vì vậy trong cùng một triều đại thì cũng có trường hợp cả hai phương thức này được áp dụng.

Ví dụ cho "Cận hệ kế thừa" cùng "Đích duệ kế thừa" đồng thời được áp dụng, phải kể đến triều đại nhà Plantagenet tại nước Anh. Quốc vương Richard I của Anh qua đời mà không có con, theo điều luật kế vị "Đích duệ" thì Arthur I, Công tước xứ Brittany sẽ kế vị Vua Richard, vì Arthur là con trai của người em quá cố lớn nhất của Vua Richard, tức Geoffrey II, Công tước xứ Brittany. Lúc này hai phe hành pháp giữa Angevin và Norman lại tranh cãi xu hướng kế vị, do phái Angevin coi trọng xu hướng "Đích duệ" mà ủng hộ Arthur, còn phái Norman lại ưa xu hướng "Cận hệ" và ủng hộ người em trai út còn sống duy nhất của Vua Richard, tức là Tân vương John của Anh. Sau đó là qua mấy đời sau, đến thời kỳ Edward III, con trai cả của nhà vua là Edward, Hắc vương tử qua đời, con trai Hắc vương tử là Richard xứ Bordeaux trở thành hậu duệ duy nhất của vương tử. Khi ấy người em trai lớn nhất còn sống của vương tử là John xứ Gaunt đang nắm nhiều vị trí quan trọng trong triều, và theo truyền thống "Cận hệ kế thừa" thì John hoàn toàn có thể trở thành trữ quân. Thế nhưng Richard vì danh vọng từ người cha quá cố của mình, cũng như sự ủng hộ từ Viện Thứ dân trong Nghị viện mà thuận lợi trở thành trữ quân của ông nội, kế thừa vị trí Thân vương xứ Wales từ cha và thành công trở thành Richard II của Anh. Ngược lại, do trong suốt thời kỳ trị vì không có hậu duệ, John trở thành "Heir presumptive" của Vua Richard II, và thời điểm nhà vua bị phế truất thì John đã qua đời, nên ngai vàng Anh được trao cho con trai của John, tức Henry IV của Anh.

Còn một phương pháp rất cổ điển để quyết định quyền kế vị tại Châu Âu, chính là quyền công nhận cả hậu duệ của nữ giới, nhưng quyền lợi của nữ luôn phải xếp sau dòng nam và chỉ khi dòng nam không còn thì mới xét đến dòng nữ, trong tiếng Anh thì phương thức này được gọi là "Agnatic-cognatic succession" hay "Semi-Salic". Ở cách thức này thì hậu duệ của nữ cũng có thể kế thừa, trong trường hợp nam giới đều không còn. Phương pháp này giống Luật Salic ở chỗ thông thường sẽ không để nữ giới trực tiếp kế vị, tuy nhiên con trai hoặc hậu duệ là nam giới của người phụ nữ này lại có tư cách. Cũng như quyền lợi truyền vị từ dòng nam, hậu duệ dòng nữ cũng ưu tiên "Con trưởng kế thừa" kèm "Cận hệ kế thừa", thông thường thì vai vế càng gần thì quyền đòi hỏi càng lớn. Ví dụ sau khi Charles IV của Pháp qua đời, xét theo khỏa hệ thì Quốc vương Edward III của Anh có quyền kế vị ngai vàng Pháp cao hơn nếu so với Philip, Bá tước Valois, bởi vì Edward là con trai của Isabelle - em gái của Vua Charles, trong khi Philip là con trai của Charles, Bá tước xứ Valois - một người chú của Vua Charles. Như vậy xét theo quan hệ xa gần trong khoa phả hệ, đời của Edward gần hơn nếu so với Philip. Dù đã được áp dụng từ xa xưa, thế nhưng không phải lúc nào phương pháp "Semi-Salic" này cũng được công nhận bởi vì ngai vàng sẽ bị rơi vào tay người ngoài, do vậy thông thường phương pháp này bị nhiều Nghị viện hoặc Giáo hội e ngại ngoại bang thẳng thừng loại bỏ, Chiến tranh Trăm Năm nổ ra chính là vì phương pháp này bị Nghị viện cùng Giáo hội nước Pháp khai trừ mà không công nhận quyền kế vị từ mẹ của Vua Edward III. Trái ngược với nước Pháp, các triều đại nhà Tudor, nhà Stuart cùng nhà Hannover trong lịch sử Anh được công nhận quyền lợi kế vị cũng đều xuất phát từ phương pháp này.

Cũng bởi vì quyền kế vị bị khống chế bởi phe phái chính trị tương quan, rất nhiều trường hợp luật lệ kế vị có thể áp dụng, lại cũng có trường hợp chỉ có chiến tranh mới có thể giải quyết, mà Chiến tranh Hoa Hồng và Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha là hai cuộc xung đột điển hình nhất về vấn đề này, phát sinh chủ yếu do sự tranh luận quyền kế vị giữa "Nam giới thuộc dòng thứ" trong khi nhánh dòng nam giới con trưởng đều không còn hậu duệ thích hợp. Đặc biệt nhất là trường hợp của "Chiến tranh Hoa Hồng" vì tuy rằng Vua Henry VI đã có hậu duệ hợp pháp là con trai với Marguerite xứ Anjou, nhưng bằng quyền lực lớn của mình mà phe nhà nhà York không công nhận quyền kế vị của người con trai này. Tại Châu Âu, có thể nói các bên dòng dõi nhà vua đều có thế lực chính trị, hành pháp lẫn tôn giáo của riêng mình, cũng tạo nên vấn đề kế vị hết sức phức tạp.

thumb|Ảnh minh họa [[Trận Barnet trong chuỗi "Cuộc chiến Hoa Hồng" của nước Anh.]]

Tôn giáo cũng là một điểm quan trọng quyết định quyền kế vị trong một số trường hợp, mà biểu hiện rõ nhất là chỉ có con cái được sinh ra trong hôn nhân vợ chồng mới có quyền thừa kế, những người con của Vua chúa với tình nhân đều không được công nhận. Quốc vương Henry VIII của Anh nổi tiếng với việc luôn khao khát con trai kế vị, và trước khi Edward ra đời thì bản thân ông đã có một con trai, Henry FitzRoy. Tuy nhiên FitzRoy lại là con trai giữa Vua Henry với tình nhân, do đó FitzRoy không có quyền kế vị ngai vàng Anh, dù FitzRoy đã được cha mình công nhận là con trai của ông. Tại rất nhiều nước ở Châu Âu như Thụy Điển cùng Tây Ban Nha, vì vấn đề ngăn cấm Quý tiện kết hôn xảy ra làm ảnh hưởng dòng dõi, người thừa kế ngai vàng sẽ mất đi quyền lợi nếu họ kết hôn mà không có sự chấp thuận của vị Vua đương nhiệm, Nghị viện và quan trọng nhất vẫn là Giáo hội. Trong trường hợp không được công nhận, cuộc hôn nhân đó sẽ bị xem là Hôn nhân bất đăng đối (Morganatic marriage), tất cả hậu duệ và người hôn phối đều không được công nhận tước vị tương xứng, và người kế vị đó có nguy cơ bị tước bỏ quyền kế vị. Tại Thụy Điển, bởi vì người kế vị cần được qua nghi thức triệu kiến của Quốc chủ, nên nếu cuộc hôn nhân không được Quốc chủ cho phép thì người kế vị sẽ mất quyền kế thừa.

Tại nước Anh, kể từ sau khi Henry VIII ly khai Công giáo La Mã, chính phủ Anh đã thành lập Giáo hội Anh với chủ trương Anh giáo, cũng từ đó một người mất đi quyền kế vị nếu cải đạo thành Công giáo. Sự kiện nổi tiếng nhất liên quan đến vấn đề này chính là C

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Louis của Pháp** (tiếng Pháp: Louis de Bourbon; 1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) là trưởng nam của Louis XIV của Pháp hay còn biết đến với vương hiệu __Vua
**Đơn vị đồn trú Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tại Hồng Kông** là một đơn vị đồn trú của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), chịu trách nhiệm về nhiệm vụ
**Vũ trụ quan sát được** (hay còn gọi là **vũ trụ khả kiến**) đối với con người ở Trái Đất là một vùng không gian của vũ trụ tập hợp mọi vật chất, sự vật,
nhỏ|Các thành viên của Hội nghị giải trừ quân bị **Hội nghị giải trừ quân bị** (tiếng Anh: **Conference on Disarmament**, viết tắt là **CD**) là một diễn đàn đa phương thương thuyết về giải
**Louis của Pháp,** **Công tước xứ Bourgogne** (16 tháng 8 năm 1682 – 18 tháng 2 năm 1712) là con trưởng của Louis, Dauphin của Pháp và Maria Anna của Bavaria. Louis từng nhận tước
thumb|Vị trữ quân cuối cùng của lịch sử [[Việt Nam - Nguyễn Phúc Bảo Long.]] **Trữ quân** (chữ Hán: 儲君), hay còn được gọi là **Tự quân** (嗣君), **Trữ nhị** (儲貳), **Trữ vị** (儲位), **Trữ
**Văn phòng Liên Hợp Quốc về Giải trừ quân bị**, viết tắt tiếng Anh là **UNODA** (United Nations Office for Disarmament Affairs) được thành lập vào tháng 1 năm 1998 với tư cách là Vụ
**Vũ trụ** bao gồm tất cả các vật chất, năng lượng và không gian hiện có, được xem là một khối bao quát. Vũ trụ hiện tại chưa xác định được kích thước chính xác,
Trong vật lý vũ trụ học, **tuổi của vũ trụ** là thời gian trôi qua kể từ Big Bang. Các đo lường hiện tại về độ tuổi của vũ trụ là 13,787 ± 0,020 tỉ
thumb|alt=Structure of the Universe|Phân phối vật chất trong một không gian hình khối của vũ trụ. Các cấu trúc sợi màu xanh đại diện cho vật chất (chủ yếu là [[vật chất tối) và các
**Cơ quan nhà nước cho các hoạt động không gian "Roscosmos"** (), cũng được gọi là **Roskosmos** (), tiền thân là **Cơ quan Vũ trụ Nga**, rồi **Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Nga**,
được thành lập vào ngày 1 tháng 6 năm 1901 với tên , là lực lượng quân sự Nhật Bản được triển khai trong quân đội Liên quân tám nước sau sự kiện Khởi nghĩa
**Võ Trứ** (1852-1898), còn có tên là: **Võ Văn Trứ, Nguyễn Trứ, Võ Thản**; là nho sĩ, là nhà sư và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp năm 1898 tại Phú
**Phàn Trù** (chữ Hán: 樊稠; ?-194) là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia cuộc chiến quân phiệt, nắm triều đình nhà Hán trong 2 năm và cuối cùng bị
**Căn cứ Không quân Los Angeles** ( **LAAFB** ) là một Căn cứ Lực lượng Không gian của Hoa Kỳ nằm ở El Segundo, California. Căn cứ Không quân Los Angeles đặt và hỗ trợ
| data4 = | header5 = | belowstyle = | below = Trích dẫn bài báo công bố trên Phys. Rev. Lett. Trước đó các nhà vật lý mới chỉ biết sự tồn tại của
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
**Nguyễn Công Trứ** (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự **Tồn Chất**, hiệu **Ngộ Trai**, biệt hiệu **Hi Văn**, là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
Quan sát cho rằng việc mở rộng của vũ trụ sẽ tiếp tục mãi mãi. Nếu vậy, vũ trụ sẽ lạnh khi nó mở rộng, cuối cùng trở nên quá lạnh để duy trì sự
**Thanh trừng Hồng quân Liên Xô (1937-1938)** () - thanh trừng chính trị quy mô lớn ("đàn áp") chống lại sĩ quan và nhân viên cấp cao của Hồng quân Công Nông (РККА) và Hải
Ảnh của bức xạ phông chụp bởi vệ tinh [[WMAP của NASA vào tháng 6 năm 2003]] **Bức xạ phông vi sóng vũ trụ** (hay **bức xạ nền vũ trụ**, **bức xạ tàn dư vũ
**Tổ chức Di trú quốc tế** là một tổ chức liên chính phủ được thành lập năm 1951 với tư cách là Ủy ban liên chính phủ về di trú châu Âu _(Intergovernmental Committee for
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
thumb|Nhiệt độ của phổ bức xạ nền vũ trụ dựa trên dữ liệu [[Nhà thám hiểm nền vũ trụ|COBE: chưa hiệu chỉnh (trên cùng); được hiệu chỉnh cho số hạng lưỡng cực do vận tốc
Hộp Đựng Quần Áo 5 Ngăn 90L Có Quai Kéo Để Gầm Giường Tiết Kiệm Diện Tích Đặc điểm: Mỗi túi có kích thước 97x33x15cm, vừa vặn thoải mái dưới giường hoặc lên trên tủ
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
**Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
**_Cuộc chiến đa vũ trụ_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Everything Everywhere All at Once_**; viết tắt: **_EEAAO_**) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hài - hành động - chính kịch của Mỹ
Trong vũ trụ học vật lý, **vũ trụ giãn nở** hay **phình to vũ trụ** (, **', hay **') là sự mở rộng của vũ trụ trong vũ trụ ban đầu với tốc độ nhanh
**Thời đại quân phiệt** là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
**** Đây là **danh sách các chiến lược quân sự** cùng một số thuật ngữ và khái niệm quân sự khác. Sự sắp xếp theo hệ thống chỉ có tính tương đối. Danh sách liệt
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn II** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
Trong toán học, một **phạm** **trù cụ thể** là một phạm trù được trang bị một hàm tử chung thủy đến phạm trù các tập hợp (hoặc đôi khi đến một phạm trù khác, trong
thumb|2017 Reveille Wild Horse Release bởi BLM, khoảng 50 dặm Anh về phía đông của Tonopah và 12 dặm Anh về phía nam [[Warm Springs, Nevada]] thumb|Mẫu vàng từ [[mỏ vàng núi Round.]] **Quận Nye**
**Quận nội thị** (, ) là một phân cấp hành chính của một (thị) xã tại Pháp, được sử dụng đặc biệt tại ba thành phố lớn nhất là: Paris, Lyon và Marseille (mỗi thành
**Lục quân Hoàng gia Campuchia** là một bộ phận của Quân đội Hoàng gia Campuchia với quân số khoảng 75.000 biên chế thành 11 sư đoàn bộ binh được trang bị thiết giáp tích hợp
**Quần đảo Hawaiʻi** (tiếng Anh: _Hawaiian Islands_, tên cũ là _Sandwich Islands_, còn có tên tiếng Việt là **Quần đảo Hạ Uy Di**) là một quần đảo gồm 19 đảo và đảo san hô, cùng
Combo 2 Hộp vải đựng đồ có nắp 2 size, thùng vải đựng quần áo đa năng gấp gọn tiện lợi MIN92 Combo 2 Hộp Vải Đựng Quần Áo hộp lưu trữ quần áo đồ
Mô tả: Tên: áo liền quần Tên vải: Cotton Thông số kỹ thuật: 0-6m, 6-12M, 12-18m, 18-24M Độ dày: Chung Chiều dài Tay áo: ngắn tay Áp dụng giới tính: Unisex Lưu ý: không có
Mô tả: Tên: Bộ đồ trẻ sơ sinh Thành phần chính của vải: Cotton Màu sắc: hồng, vàng, xanh dương Chiều cao phù hợp: 0-3 tháng Số lượng bộ: Bộ năm món Chiều dài tay
kiểu dáng : set áo sơ mi đũi dàixuất xứ : hàng việt namchất liệu : vải đũi trơnmàu sắc : vàng / xanh / đen / trắng / nâuhoa tiết : trơnform : Áo
kiểu dáng : set áo sơ mi đũi dàixuất xứ : hàng việt namchất liệu : vải đũi trơnmàu sắc : vàng / xanh / đen / trắng / nâuhoa tiết : trơnform : Áo
kiểu dáng : set áo sơ mi đũi dàixuất xứ : hàng việt namchất liệu : vải đũi trơnmàu sắc : vàng / xanh / đen / trắng / nâuhoa tiết : trơnform : Áo
kiểu dáng : set áo sơ mi đũi dàixuất xứ : hàng việt namchất liệu : vải đũi trơnmàu sắc : vàng / xanh / đen / trắng / nâuhoa tiết : trơnform : Áo
kiểu dáng : set áo sơ mi đũi dàixuất xứ : hàng việt namchất liệu : vải đũi trơnmàu sắc : vàng / xanh / đen / trắng / nâuhoa tiết : trơnform : Áo
kiểu dáng : set áo sơ mi đũi dàixuất xứ : hàng việt namchất liệu : vải đũi trơnmàu sắc : vàng / xanh / đen / trắng / nâuhoa tiết : trơnform : Áo
kiểu dáng : set áo sơ mi đũi dàixuất xứ : hàng việt namchất liệu : vải đũi trơnmàu sắc : vàng / xanh / đen / trắng / nâuhoa tiết : trơnform : Áo