✨Quan Vũ

Quan Vũ

Quan Vũ (, 158?–220), hay Quan Công, tự Vân Trường (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, nhưng thất bại của ông khi đóng giữ Kinh Châu là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc nhà Thục Hán bị suy yếu đáng kể.

Trong dân gian, Quan Vũ thường được xem là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi, và là người đứng đầu trong số Ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung. Thực tế, các tài liệu lịch sử không ghi chép về việc Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi từng làm lễ kết nghĩa (chỉ ghi rằng họ có quan hệ rất thân thiết, "ân tình như anh em"); chức danh Ngũ hổ tướng cũng chỉ là hư cấu (tuy nhiên đúng là Quan Vũ đã được phong làm Tiền Tướng quân, chức vụ cao nhất trong quân đội Thục Hán).

Quan Vũ là được đánh giá là vị tướng có tài năng, võ nghệ dũng mãnh, được người đương thời nhận xét là "sức địch vạn người, hổ thần một thời, có phong độ quốc sĩ" "có tài và có nghề"

:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung mô tả nhân vật Quan Vũ: "Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt đỏ như gấc, môi như tô son, mắt phượng mày tằm, oai phong lẫm liệt." Những miêu tả này của tác giả chỉ là ước lệ, và không có cơ sở lịch sử. :Tuy nhiên, đơn vị thước của Trung Quốc được biết đến có sự biến thiên theo thời gian chứ không cố định. Cụ thể thời Hán, một trượng (được hiểu như mười thước) bằng khoảng 2,13 m đến 2,37 m; thời Tam Quốc, một trượng khoảng 2,42 m; thời Minh, Thanh,.. một trượng khoảng 3,11 m. :Nếu ước lượng chiều cao theo thời của nhà văn La Quán Trung, Quan Vũ cao đến 2,8 m. Nhưng thời điểm Lưu Bị gặp Quan Vũ là khoảng thời gian Hán mạt chưa qua thời Tam Quốc, vì vậy, chiều cao của Quan Vân Trường có thể khoảng 2,13 m.

Các sách sử chính thống không có ghi chép gì về tổ tiên của Quan Vũ. Quan Đế minh thánh kinh (một ghi chép tôn giáo được cho là do chính "Quan Thánh" viết bằng cách nhập hồn vào người lên đồng) cho rằng cụ nội Quan Vũ là Quan Long Phùng, ông nội Quan Vũ là Quan Thẩm (關審), tự là Vấn Chi (問之); cha ông là Quan Nghị (關毅), tự là Đạo Viễn (道遠).

Không rõ gia cảnh Quan Vũ thế nào, nhưng ông được học cả văn lẫn võ. Tam quốc chí ghi chép rằng theo Giang Biểu truyện thì thời trẻ Vũ rất thích Tả truyện, "thường đọc ngâm nga những chỗ mưu lược đầy vẻ thích thú". :Trong dân gian, Quan Vũ được cho là nhà nghèo, đã từng làm nhiều nghề như thợ rèn, bán đậu phụ, đẩy xe... nên sau này được tôn là ông tổ nhiều nghề ở Trung Hoa. Nhưng sử sách không có ghi chép rõ ông từng làm nghề nào.

Do phạm tội, ông phải bỏ quê hương đến nương náu ở quận Trác (Quan Vũ truyện chỉ ghi: "Sau có tội, bỏ xứ lưu lạc đến Trác Quận", không rõ tội gì, nhưng nhiều giai thoại dân gian cho là ông đã giết một gã côn đồ khi hắn đòi tiền bảo kê trong chợ). Tại quận Trác, Quan Vũ đã gặp gỡ với Lưu Bị và Trương Phi, trở nên thân thiết như anh em.

:Tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung có tình tiết về việc Lưu, Quan, Trương gặp nhau ở chợ, sau đó 3 người làm lễ kết nghĩa huynh đệ ở vườn đào gần nhà Lưu Bị, xin được chết cùng ngày, cùng tháng, cùng năm. Lưu Bị nhiều tuổi nhất nên là anh cả, kế đến là Quan Vũ, út là Trương Phi. Thực ra đây truyện kể dân gian được đưa vào tiểu thuyết, còn sử sách không ghi chép về việc 3 người đã từng làm lễ kết nghĩa, mà chỉ ghi rằng 3 người có quan hệ rất thân thiết. Sử sách cũng không ghi chép về năm sinh của Quan Vũ nên không rõ ông ít tuổi hay nhiều tuổi hơn Lưu Bị.

Theo Lưu Bị

Đánh dẹp khởi nghĩa Khăn Vàng

Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng của Trương Giác nổi lên, Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị khởi binh tham gia cùng quân triều đình đánh dẹp khởi nghĩa. :Tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa (viết vào thế kỷ 14) hư cấu ra việc sau khi "kết nghĩa vườn đào", Lưu Quan Trương tự rèn vũ khí cho mình, Quan Vũ rèn một cây đao lớn gọi là "Thanh long yểm nguyệt đao". Tuy nhiên, Cổ kim đao kiếm lục (viết vào thế kỷ thứ 5) lại ghi chép rằng Quan Vũ lấy sắt từ núi Võ Đô rèn nên 2 thanh kiếm cho mình.

Trong quá trình đàn áp khởi nghĩa nông dân Khăn Vàng, Vũ và Phi là hai cánh tay đắc lực của Lưu Bị. Tam quốc chí chép: Tiên chủ (Lưu Bị) cùng với hai người (Quan Vũ, Trương Phi) ngủ cùng giường, tình thân thiết như huynh đệ. Khi có việc công, hai người đứng hầu trọn ngày, mọi thứ đều do Tiên chủ chu toàn, chẳng tị hiềm gian khổ.

Lưu Bị theo Công Tôn Toản (vốn là bạn học từ nhỏ, Bị coi như anh), được cho làm Bình Nguyên tướng, bèn bổ nhiệm Vũ và Phi làm Biệt hộ Tư mã, chia nhau thống lĩnh quân của Lưu Bị.

:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung hư cấu thêm các tình tiết như: nhân vật Lưu Bị vừa xuất quân đã liên tiếp thắng lớn, Quan Vũ và Trương Phi uy dũng, chém chết các tướng "giặc khăn vàng" như Trình Viễn Chí, Đặng Mậu, v.v... (tất cả đều là nhân vật hư cấu).

Không tham gia liên minh đánh Đổng Trác

Đổng Trác tiến kinh khống chế triều đình, phế Hán Thiếu Đế, lập Lưu Hiệp làm Hán Hiến Đế, chuyên quyền lộng hành, chư hầu khắp nơi bất bình.

Năm 190, Kiều Mạo phát hịch kể tội trạng của nghịch thần Đổng Trác, hiệu triệu chư hầu chống Đổng. Chư hầu khắp nơi hưởng ứng, bầu Viên Thiệu làm minh chủ, tiến đánh Đổng Trác. Công Tôn Toản và Lưu Bị không tham gia.

:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung hư cấu chuyện nhân vật Quan Vũ tham gia hội minh, dễ dàng lập công chém chết nhân vật Hoa Hùng, khiến Tào Tháo cùng chư hầu đều ngưỡng mộ. Đây chỉ là tình tiết hư cấu, Hoa Hùng bị quân Tôn Kiên đánh bại và hành hình năm 191 tại Dương Nhân (陽人). Việc Quan Vũ cùng Trương Phi, Lưu Bị giao chiến với Lã Bố ở cửa ải Hổ Lao cũng hoàn toàn không có thật.

Theo Lưu Bị đi giúp Đào Khiêm

Năm 193, Tào Tháo mang quân đánh Từ châu báo thù cho cha vì nghi quan mục Từ châu Đào Khiêm là chủ mưu giết Tào Tung (cha Tào Tháo). Đào Khiêm cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Khải lại cầu cứu đến Công Tôn Toản. Toản bèn sai Lưu Bị đi cứu. Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị đi cứu Từ châu với mấy cánh quân cứu viện cùng quân Từ châu tạo thế ỷ dốc khiến quân Tào không thể hạ được thành.

Không lâu sau, Lã Bố đánh chiếm Duyện châu của Tào Tháo. Tào Tháo buộc phải mang quân trở về cứu, Từ châu được giải vây. Đào Khiêm rất cảm phục Lưu Bị đã cứu giúp.

Năm 194, do tuổi già sức yếu nên trước khi qua đời, Đào Khiêm tiến cử Lưu Bị làm Từ châu mục.

Tranh chấp ở Từ châu

Xung đột với Lã Bố

Lã Bố bị Tào Tháo đánh bật khỏi Duyện châu, bèn chạy đến Từ châu theo Lưu Bị. Ít lâu sau Viên Thuật mang quân đánh Từ châu, trong khi Lưu Bị đang cùng Thuật giao tranh thì Lã Bố đồng mưu với Thuật đánh úp thành Từ châu. Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi mắc kẹt ở Quảng Lăng không có đường về, đành phải trở lại Từ châu hàng Lã Bố, được Bố cho ở thành nhỏ Tiểu Bái.

Năm 198, Lã Bố lại trở mặt đánh Tiểu Bái. Tuy Quan Vũ và Trương Phi khỏe mạnh hơn người nhưng vì quân ít nên vẫn bị bại trận và theo Lưu Bị chạy khỏi Tiểu Bái và cầu viện Tào Tháo.

Theo Tào đánh Lã Bố, xin Tào Công cho lấy vợ

Tháng 9 năm đó, Tào Tháo và Lưu Bị hợp sức mang quân đến đánh Từ châu để trừ Lã Bố. Quan Vũ cũng dự trận này. Quân Tào vây thành đến tháng 10, cuối cùng Lã Bố bị tướng của mình làm phản, bị bao vây ở lầu Bạch Môn, bị bắt và xử tử.

Tam quốc chí trích dẫn Thục KýNgụy thị Xuân Thu chép rằng: Lã Bố sai đi cầu cứu Viên Thuật, Thuật giữ Nghi Lộc ở lại và gả cho vợ mới. Quan Vũ xin Tào Công (Tào Tháo) cho được lấy vợ cũ của Tần Nghi Lộc là Đỗ thị, Công đồng ý. Sau khi phá được Lã Bố, Vũ lại đến xin lấy người đó làm vợ. Công ngờ rằng Đỗ thị có nhan sắc, mới sai người đưa về xem trước, rồi giữ lại cho mình, nhận con của thị là Tần Lãng làm con nuôi. Vũ trong lòng bất an.

Sách Thục ký chép rằng: trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng ông, hy vọng ông nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ hỏi Tào Tháo rằng có nhận người đàn bà này được không, Tào Tháo nói rằng được. Nhưng sau đó Quan Vũ hỏi thêm mấy lần nữa khiến Tào Tháo cảm thấy hứng thú bèn sai ông mang vợ Lã Bố tới. Khi Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình.

:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung lược bỏ đi chuyện Quan Vũ xin Tào Công cho lấy vợ, lại hư cấu nên chuyện Quan Vũ cùng Lưu Bị quỳ xuống xin nhân vật Tào Tháo tha mạng cho tướng cũ của Lã Bố là Trương Liêu.

Cùng Lưu Bị chống Tào Tháo, chiếm Từ Châu

Tào Tháo thu quân về Hứa Xương, không trả lại Từ châu (vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm giao cho) mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ, giữ Bị lại Hứa Xương để kiềm chế.

Sách Thục ký chép rằng: Có lần Lưu Bị cùng đi săn với Tào Tháo, Quan Vũ lén khuyên Lưu Bị nên nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào Tháo nhưng Lưu Bị không nghe theo vì tình thế không cho phép manh động.

Năm 199, Lưu Bị xin đi đánh Viên Thuật, Tào Tháo cấp 1000 quân cho đi. Quan Vũ và Trương Phi lại hộ vệ Lưu Bị ra mặt trận, giúp Lưu Bị đánh bại Thuật. Thuật thua trận ốm chết.

Lưu Bị thừa cơ dẫn quân đánh chiếm Từ Châu, rồi giết chết Xa Trụ. Quan Vũ được bổ nhiệm làm thái thú Hạ Bì. :Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung hư cấu ra chuyện Xa Trụ là võ tướng bị Quan Vũ lừa ra khỏi thành rồi chém chết; đây cũng là do Quan Vũ tự làm, không phải ý Lưu Bị.

Thua trận bị bắt, đầu hàng Tào Tháo

Đầu năm 200, Tào Tháo chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu nhưng Thiệu chần chừ không ra quân. Tào Tháo gấp rút tiến đánh, Lưu Bị ít quân không chống nổi, thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy, bị bắt, buộc phải đầu hàng Tào Tháo, theo về Hứa Xương.

Tam quốc chí ghi: "năm Kiến An thứ năm, Tào Công đông chinh, Tiên chủ thua chạy sang với Viên Thiệu, Tào công bắt được Vũ đem về."

::Sử sách không ghi rõ vì sao Quan Vũ lại chịu hàng Tào Tháo (bởi sau đó ít lâu thì Quan Vũ đã trả lại phong thưởng của Tào Tháo để bỏ đi tìm Lưu Bị). Còn trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung hư cấu ra câu chuyện rằng nhân vật Quan Vũ bị bao vây, ban đầu thà chết không chịu hàng, sau nhờ có nhân vật Trương Liêu thuyết phục mới đưa ra "ước pháp tam chương" (giao hẹn 3 điều), trong đó có điều rằng: Một khi biết được tin tức của Lưu Bị, dù ở chân trời góc bể, Quan Vũ sẽ lập tức rời đi. Nhân vật Tào Tháo vừa nghe xong thì cho rằng: "Nếu giao hẹn như vậy, ta còn cần Quan Vân Trường làm gì nữa?", nhưng sau hồi suy nghĩ, quý tiếc và ái mộ nhân tài nên đã chấp thuận yêu cầu.

Phục vụ cho Tào Tháo

Sử sách ghi rằng Tào Tháo bắt được Quan Vũ, cho "làm Thiên tướng quân, ban cho lễ cực hậu". :Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung miêu tả nhân vật Tào Tháo cúi người quỳ gối xuống, tự tay cột lại giày cho Quan Vũ trước mặt ba quân khiến Quan Vũ vừa bối rối vừa vô cùng cảm động. Sau đó, Tào Tháo không chỉ ban tặng mỹ nữ, rượu ngon, bạc vàng tơ lụa, mà ngay cả con ngựa Xích Thố mà Lã Bố cưỡi khi xưa cũng được Tào Tháo tặng cho Quan Vũ, nhưng Vũ vẫn có ý muốn rời đi. Tháo không những không tức giận mà càng thêm kính trọng.

Tam quốc chí viết: Tào Công thấy Vũ là người hùng tráng, muốn tỏ ý lưu lại lâu dài, mới bảo Trương Liêu dò hỏi ý Quan Vũ. Vũ thở dài nói: "Ta biết Tào Công đãi ta rất hậu, nhưng ta đã chịu hậu ân của Lưu tướng quân, thề cùng sống chết, chẳng thể bội ước. Ta thà chết chứ chẳng ở lại được, ý ta muốn lập công để báo ơn Tào công rồi sẽ ra đi."

Phó Tử viết: Liêu sợ Thái Tổ (Tào Tháo) giết Vũ, than thở rằng: "Tào Công là chúa ta; Vũ là anh em của ta", rồi đành phải báo lại ý định của Quan Vũ. Thái tổ nói: "(Vũ) thờ chúa không quên gốc, thật là nghĩa sĩ thiên hạ vậy."

Đột kích chém Nhan Lương

Viên Thiệu theo lời khẩn cầu của Lưu Bị bèn dẫn quân đi đánh Tào Tháo. Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo đi cứu Bạch Mã, đem theo Quan Vũ và Trương Liêu; mặt khác lại chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã. Quan Vũ ra trận, đột kích giết chết mãnh tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, giải vây cho thành Bạch Mã, được Tào Tháo phong làm Hán Thọ đình hầu (漢壽亭侯). :Theo Tam quốc chí, Quan Vũ truyện chép rằng: Vũ trông xa thấy Lương ở dưới lọng chỉ huy, liền ra roi quất ngựa xông tới đâm chết Lương giữa vạn quân, chém lấy thủ cấp rồi quay về.

Tháng 5 năm 200, Quan Vũ cùng Trương Liêu lại theo Tào Tháo đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Quân Tào đánh bại quân họ Viên một trận nữa tại đây, Văn Xú tử trận. :Trong Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung thêm chuyện nhân vật Văn Xú đánh bại Từ Hoảng, Trương Liêu, nhưng bị Quan Vũ cưỡi ngựa Xích Thố đuổi theo chém chết. Trên thực tế Văn Xú chết trong đám loạn quân, không rõ ai giết, và Quan Vũ cũng chưa từng cưỡi ngựa Xích Thố.

Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó Tào Tháo hạ lệnh lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân. Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Tào Tháo xét công trạng, ban thưởng cho Quan Vũ rất nhiều.

Bỏ trốn về với Lưu Bị

Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tự lập. Quan Vũ sau khi đã lập công trả ơn cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị. Trong khi Tào Tháo đang theo dõi sát sao tình hình mặt trận Quan Độ và điều quân để quyết một trận kịch chiến thì Quan Vũ gói toàn bộ tặng phẩm của Tào Tháo để lại, viết một lá thư cáo biệt và lẳng lặng ra đi. Thủ hạ của Tào Tháo muốn truy kích ông nhưng Tào Tháo ngăn lại không cho đuổi theo.

Tam quốc chí ghi: Quan Vũ giết được Nhan Lương, tức là đã hoàn thành lời hứa lập công để báo ơn Tào Tháo. Tào Tháo biết Vũ tất bỏ đi, bèn tặng thưởng thêm rất hậu để mong rằng Quan Vũ sẽ đổi ý, không bỏ đi theo Lưu Bị nữa. Vũ liền gói ghém hết những đồ thưởng để lại, viết thư cáo từ, rồi đi đến chỗ Tiên chủ (Lưu Bị) ở bên quân Viên. Tả hữu muốn đuổi theo, Tào công nói: "Người ấy bỏ đi vì chủ, chớ nên đuổi theo".

:La Quán Trung mô tả Quan Vũ rời bỏ Tào Tháo sau trận Diên Tân, nhân vật Tào Tháo còn kịp đi ra tiễn ông ở Hứa Xương. Trên thực tế hai bên Viên - Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát không rời chiến trường, và Quan Vũ rời khỏi đại doanh Tào ở Diên Tân. Chuyện Quan Vũ bảo vệ hai chị qua năm ải chém sáu tướng, nhận Quan Bình làm con nuôi, thu nhận Châu Thương cũng hoàn toàn không có thật. (Quan Bình là con ruột, Châu Thương là nhân vật hư cấu).

Trở lại giúp Lưu Bị dựng nghiệp

Sau đó ông gặp lại được Lưu Bị và Trương Phi, cùng nhau xây dựng lại lực lượng. Lưu Bị liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Trong khi đó, Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu trong trận quyết định ở Quan Độ năm 200 và năm sau lại đánh bại Thiệu một trận nữa ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp.

Tháng 6 năm 201, trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo mang quân về Hứa Xương rồi sai Sái Dương mang quân tấn công Lưu Bị ở Nhữ Nam. Sái Dương tử trận, Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu. :Trong Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung hư cấu ra việc nhân vật Sái Dương bị Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ, nhưng thực tế hoàn toàn không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ, và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam.

Năm 208, Tào Tháo sau khi diệt họ Viên, làm chủ toàn bộ trung nguyên, bèn mang quân đánh Kinh châu. Lưu Bị từ Phàn Thành, chuẩn bị mang dân vượt sông, sai Quan Vũ mang mấy trăm chiến thuyền theo dòng sông, hẹn hội binh ở Giang Lăng.

Tào Tháo sợ Lưu Bị chiếm mất Giang Lăng là chỗ chứa nhiều lương thảo, bèn sai 5000 quân kỵ gấp rút đuổi theo. Tào Thuần đuổi kịp Lưu Bị ở Đương Dương-Trường Bản. Quân Lưu Bị ít, laị có đông dân chúng đi theo nên không chống nổi, quân Tào bắt được gia quyến của Bị (gồm phu nhân và hai con gái) cùng mẹ của Từ Thứ. Lưu Bị bỏ chạy về Hán Tân và gặp Quan Vũ ở đó.

Tham gia chiến dịch Xích Bích

Tập hợp lực lượng trở lại, Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền. Chu Du chỉ huy liên quân, dùng kế hỏa công của Hoàng Cái đánh bại Tào Tháo trong trận Xích Bích cuối năm 208, Quan Vũ cũng cùng Lưu Bị tham chiến. Tào Tháo bại binh, phải nhanh chóng trở về giữ phương bắc, giao cho Tào Nhân và Từ Hoảng ở lại giữ thủ huyện Nam Quận là Giang Lăng, sai Nhạc Tiến giữ Tương Dương. :La Quán Trung hư cấu nên tình tiết Quan Vũ trọng nghĩa tha mạng cho nhân vật Tào Tháo ở đường Hoa Dung. Sự kiện hư cấu này hoàn toàn không có thật, trên thực tế Lưu Bị và Chu Du đã cố đuổi bắt Tào Tháo nhưng không kịp.

Các thất bại ở Giang Lăng

Lưu Bị và Tôn Quyền đều muốn nhân đà thắng lợi để giành lấy vùng đất chiến lược Kinh châu. Chu Du cầm vài vạn quân tiền tuyến từ Xích Bích, Ô Lâm tiến đánh Giang Lăng. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi mang hơn 1000 quân mã đóng ở bờ nam sông Trường Giang cùng tiến.

Quan Vũ theo lệnh biệt phái của Lưu Bị và Chu Du, mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân.

Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông dẫn quân đánh Quan Vũ. Vũ thúc quân bủa vây. Lý Thông và các tướng sĩ xuống ngựa nhổ hết chông chà, xông vào vòng vây, vừa đánh vừa tiến lên, cuối cùng phá được vây, đánh lui quân Quan Vũ.

Nhạc Tiến khi ấy khởi quân ra thành Tương Dương, đánh bại quân Quan Vũ. Sau đó, Vũ lại dùng thủy binh vây Thượng Giang, nhưng Nhạc Tiến và Văn Sính lại đánh lui được Vũ ở gần Hạ Khẩu, khiến đường nối phía bắc với Giang Lăng của quân Tào được thông suốt.

Văn Sính lại tiếp tục dùng thủy quân đuổi đánh Quan Vũ ở Tầm Khẩu, lấy được kho lương và đốt sạch chiến thuyền của Vũ. Với chiến công đó, Sính được tấn phong tước Diên Thọ Đình hầu và chức Thảo nghịch tướng quân. :Trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, tất cả những thất bại này của Quan Vũ đều được tác giả lược bỏ.

Được phong làm thái thú Tương Dương

Chiến dịch bao vây Giang Lăng kéo dài hơn 1 năm mới kết thúc. Tháng chạp năm 209, trước sự vây bức ngày càng ác liệt của quân Đông Ngô, Tào Tháo lệnh cho Tào Nhân bỏ thành Giang Lăng rút về Tương Dương. Chu Du thúc quân vào chiếm đóng Giang Lăng và các huyện phụ cận.

Tuy chưa chiếm được toàn bộ Nam quận nhưng Tôn Quyền đã giành quyền kiểm soát đại bộ phận phía nam; chỉ còn Tương Dương vài huyện quanh đó vẫn trong tay Tào Tháo. Chu Du được Tôn Quyền phong làm Thái thú Nam quận, thiết lập chiến tuyến tiền tiêu tại đây trong cuộc đối đầu với Tào Nhân. :La Quán Trung hư cấu ra việc Chu Du sau khi đánh bại được Tào Nhân rồi định đến chiếm thành thì thành đã thuộc về Lưu Bị. Chu Du bực tức quay sang đánh "Kinh châu" (Công An) và Tương Dương nhưng các thành này cũng đã bị nhân vật Gia Cát Lượng lập kế nẫng tay trên.

Trong khi Lưu Bị và Trương Phi tham gia tác chiến cùng Chu Du, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Triệu Vân phối hợp với Lưu Kỳ tấn công 4 quận phía nam Kinh châu. Vũ được phong thái thú Tương Dương, Đãng khấu tướng quân. Tuy nhiên, trên thực tế thành Tương Dương vẫn nằm trong tay quân Tào, nên Quan Vũ chỉ đóng giữ Giang Bắc. :La Quán Trung mô tả một trận chiến hư cấu ở Trường Sa, trong đó Quan Vũ chỉ dẫn theo 500 lính, đã đại chiến với nhân vật Hoàng Trung. Trên thực tế, thái thú Trường Sa là Hàn Huyền đã nghe lời khuyên của Hoàng Trung, không đánh mà đầu hàng Lưu Bị.

Trấn giữ Kinh châu

Tháng 12 năm 211, Lưu Bị mang quân vào Tây Xuyên chiếm đất của Lưu Chương, Quan Vũ được giao ở lại giữ Kinh Châu. Kinh châu thời Lưu Biểu nguyên có 7 quận, lúc đó chiến tranh qua lại giữa 3 phe Tào - Tôn - Lưu sau trận Xích Bích, mỗi bên còn giữ một phần: Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ (con cả Lưu Biểu); Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam quận; Tào Tháo còn giữ lại quận Nam Dương và nửa Nam quận. Sau khi Lưu Kỳ chết, Lưu Bị tiếp quản phần nửa quận Giang Hạ. Quan Vũ tiếp quản Kinh châu từ tay Lưu Bị với lãnh thổ 4 quận rưỡi.

Tranh chấp các quận Kinh Châu

Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợ nhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng "mượn" lâu ngày không trả.

Năm 214, nhân lúc Lưu Bị đã vào Tây Xuyên và điều động thêm nhiều quân tướng, Tôn Quyền sai người đón em gái về, sau đó lại phái Lỗ Túc và Lã Mông đánh mấy quận Kinh châu trong tay Quan Vũ. Quân Đông Ngô đông đảo, đánh chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa. Quan Vũ chỉ còn giữ được nửa quận Giang Hạ và quận Vũ Lăng.

Lưu Bị ở Ích châu được tin, thấy tình hình Kinh châu nghiêm trọng, vội mang quân ra thành Công An thuộc quận Vũ Lăng, sai Quan Vũ mang quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc. Tôn Quyền cũng đích thân từ Ngô quận tiến ra Lục Khẩu phòng thủ và sai Lỗ Túc dẫn quân ra Ích Dương.

Không dám qua sông

Cam Ninh theo Lỗ Túc đến trấn phủ canh giữ Ích Dương, chống lại Quan Vũ. Vũ cho ba vạn quân, đích thân tuyển chọn ra lấy dũng sĩ 5000 người, đưa đến chỗ nước cạn trên thượng du cách huyện hơn mười dặm, bảo rằng muốn đang đêm vượt sông sang.

Lỗ Túc với các tướng cùng nhau bàn luận. Ninh lúc ấy có 300 quân, bèn nói: "Có thể lại đem thêm 500 quân nữa cấp cho tôi. Tôi đến đó chống chọi. Đảm bảo Vũ nghe tiếng tôi ho hắng khạc nhổ không dám lội xuống nước, mà nếu có lội xuống tất bị tôi bắt."

Túc lập tức chọn lấy nghìn quân trao thêm cho Ninh. Ninh trong đêm đến nơi. Vũ nghe tin, e ngại quân Ngô đã đặt sẵn mai phục nên thôi không vượt sông nữa mà dựng trại gỗ đóng quân bên sông. Nhân đó ngày nay tên xứ ấy là "khe Quan Vũ" (關羽瀨).

Hội đàm với Lỗ Túc

Quan Vũ và Lỗ Túc gặp nhau tại Ích Dương. Hai bên hội đàm trước trận. Lỗ Túc hỏi Quan Vũ:

Quan Vũ đáp:

Lỗ Túc nói tiếp:

Quan Vũ không trả lời được. Cuối cùng hai bên giảng hòa, cùng thu quân trở về.

:Trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, việc hội đàm được hư cấu thành việc Quan Vũ "một đao tới hội", và không có việc bị đuối lý với Lỗ Túc. Trong sự kiện hư cấu này, Quan Vũ đã dùng mưu trí và uy dũng của mình để thoát khỏi sự uy hiếp của quân Đông Ngô, ông bắt Lỗ Túc làm con tin để vượt khỏi sự bao vây của các tướng Ngô. Thực tế thì không phải Quan Vũ sang phó hội chỗ Lỗ Túc mà là hai bên gặp nhau đối đáp trước trận, sau đó cùng rút về, tác giả đã hoán đổi vị thế của hai nhân vật này để tâng bốc Quan Vũ.

Bất hòa với Tôn Quyền

Năm 215, thấy tình hình bất lợi (Tào Tháo chiếm Hán Trung từ tay Trương Lỗ, uy hiếp Tây Xuyên) và không thể dùng vũ lực đoạt lại các quận đã mất, Lưu Bị đành phải nhượng bộ Tôn Quyền, đề nghị chính thức công nhận chủ quyền 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa cho Đông Ngô, xin đổi lấy Nam quận. Tôn Quyền chấp thuận giảng hòa, phân chia lại Kinh châu, lấy sông Tương Thủy làm ranh giới. Quan Vũ tiếp nhận quận Giang Lăng, tướng của Tôn Quyền là Trình Phổ giao lại Giang Lăng, về giữ chức thái thú Giang Hạ. Tôn Quyền giao thêm phần nửa Nam quận cho Quan Vũ; đổi lại Quan Vũ chính thức giao lại quận Trường Sa và Quế Dương cho Tôn Quyền. Như vậy địa bàn Kinh châu của Quan Vũ từ năm 215 chỉ gồm có các quận Vũ Lăng, Giang Lăng và một nửa Nam quận, nửa Nam quận kia vẫn thuộc về quân Tào Tháo

Tôn Quyền sau đó tiếp tục muốn củng cố tình thân với Lưu Bị, bèn sai sứ giả đến xin cầu hôn con gái Quan Vũ cho con trai mình. Tuy nhiên, Quan Vũ không nhận thức được tầm quan trọng của liên minh Tôn – Lưu như Gia Cát Lượng từng nhấn mạnh, không những ông từ chối mà còn nhục mạ Tôn Quyền. Ông quát vào mặt sứ giả Đông Ngô:

Từ đó quan hệ giữa Đông Ngô và Kinh châu lại căng thẳng như trước. Người duy nhất chủ trương giữ hòa khí với Lưu Bị là Lỗ Túc đã qua đời nên Tôn Quyền quyết định ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu.

Cạo xương chữa thương

Tam quốc chí chép: Quan Vũ từng bị trúng tên (không nói rõ lúc nào), bắn xuyên cánh tay trái, sau vết thương tuy đã khỏi nhưng mỗi lúc mưa dầm trở gió, xương cốt vẫn thường đau nhức, thầy thuốc chẩn đoán rằng: “Mũi tên có thuốc độc, chất độc ấy thấm vào xương cốt, giờ phải khoét thịt ở cánh tay bị thương, nạo xương trừ bỏ chất độc, rồi sau mới điều trị được gốc bệnh.” Quan Vũ liền duỗi tay sai thầy thuốc chữa trị. Lúc ấy, Vũ cùng chư tướng uống rượu nói chuyện, máu trên cánh tay chảy đầm đìa đầy cả chậu, mà ông vẫn cắt thịt nướng uống rượu, cười nói như không.

:Trong Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung cũng đưa vào chuyện này để nêu bật dũng khí của Quan Vũ. Tuy nhiên, tác giả đã hư cấu thêm các tình tiết như: vết thương là do Quan Vũ bị Bàng Đức bắn lén (trong trận Tương Dương-Phàn Thành năm 219), rồi Quan Vũ chịu "cạo xương chữa thuốc" trong lúc đánh cờ (chứ không phải lúc nói chuyện và ăn uống), còn "bác sĩ phẫu thuật" chính là "thần y" Hoa Đà (trên thực tế Hoa Đà đã mất từ năm 208, trước trận Tương Dương-Phàn Thành 11 năm).

Vây hãm Tương-Phàn

Năm 219, Lưu Bị đánh chiếm được Đông Xuyên từ tay Tào Tháo, lại đánh lui được đại quân Tào, tự xưng là Hán Trung vương. Quan Vũ được phong làm Tiền tướng quân và ban cho cờ tiết, lưỡi phủ việt.

Phát động cuộc chiến Tương-Phàn

Tháng 7 năm 219, Quan Vũ giao cho My Phương giữ Giang Lăng, Sĩ Nhân giữ thành Công An, còn mình khởi đại quân bắc phạt đánh Tào Tháo, đem theo con trai trưởng là Quan Bình. Thục ký viết: Vũ ban đầu xuất quân vây Phàn thành, mộng thấy có đàn lợn cắn vào chân, mới nói nhỏ với Bình rằng: “Ta nay tuổi đã cao, như thế ắt nay đi chẳng thể trở về!

:Về việc tại sao Quan Vũ lại một mình kéo quân đi đánh Tương-Phàn, và đây là chủ ý của ai (Lưu Bị, Gia Cát Lượng, hay bản thân Quan Vũ) chính sử không ghi rõ, và các nhà sử học của Trung Quốc thời nay có rất nhiều tranh cãi. Trương Tác Diệu trong Lưu Bị truyện cho rằng đây là Quan Vũ làm theo "gợi ý" của Lưu Bị và Gia Cát Lượng, nhưng hai người này lại không có phối hợp hay hỗ trợ gì, để Quan Vũ tự lo liệu, dẫn đến thất bại. Hà Tư Toàn trong Tam Quốc sử lại cho rằng đây là tự ý Quan Vũ làm, Lưu Bị đã không ra lệnh nhưng cũng không phản đối hay ngăn cản. Lã Tư Miễn trong Tần Hán sử cho rằng đây là Quan Vũ phối hợp với chiến dịch Hán Trung của Lưu Bị, nhưng ra quân quá sớm khi mà quân Lưu Bị chưa kịp về (giả thuyết này sai vì khi Quan Vũ ra quân thì Lưu Bị đã chiếm được Hán Trung rồi). Dịch Trung Thiên thì cho rằng đây là Quan Vũ muốn nhân lúc Lưu Bị chiến thắng ở Hán Trung, nói tích cực thì là "muốn thừa thắng xông lên để giành thêm thắng lợi", nói tiêu cực thì là "tham lam không biết lượng sức", "đánh giá sai tình huống".

Đại quân của Quan Vũ vây hãm thành Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn (樊) thành. Tào Tháo nghe tin, sai Vu Cấm dẫn quân đi cứu Tương-Phàn. :_Tam quốc diễn nghĩa_có tình tiết hư cấu rằng Quan Vũ chém tướng, đánh chiếm được cả thành Tương Dương. Trên thực tế Vũ chỉ mới vây đánh thành, không chiếm được. (Cũng theo tiểu thuyết này, trước đó nhân vật Gia Cát Lượng đã phỗng tay trên của Chu Du, sai Triệu Vân cướp được Tương Dương, sau lại nói Tương Dương trong tay quân Tào, nhân vật Quan Vũ đánh chiếm được lần 2).

Bàng Đức lúc trước dẫn quân bản bộ hợp binh cùng Tào Nhân đi dẹp loạn Hầu Âm (侯音), Vệ Khai (衛開) ở huyện Uyển (宛), rồi xuôi xuống Nam, đến Phàn (樊) thành giúp chống Quan Vũ. Bàng Đức nói "Ta đã chịu quốc ân, về nghĩa phải lấy cái chết để báo đáp. Năm nay nếu ta không giết được Vũ, tất Vũ sẽ giết ta." Quan Vũ và Bàng Đức giao chiến, Vũ bị Đức bắn tên trúng vào trán. :Tam quốc diễn nghĩa có tình tiết hư cấu rằng Quan Vũ dùng mưu kế khơi dòng nước tạo ra lũ lụt. Thực tế, theo các nhà nghiên cứu lịch sử người Trung Quốc Dịch Trung Thiên và Hà Tư Toàn thì sử sách chỉ ghi đây là thiên tai, ngoài ra không ghi chép gì về việc Quan Vũ khơi dòng nước lũ. Quan Vũ đã biết lợi dụng thời cơ để tấn công, nếu không có lũ lụt thì chưa chắc Vũ đã thắng được đội quân của Vu Cấm, Bàng Đức. :Theo tác giả Trần Tiến trên báo Thể thao & Văn Hóa thì: đây là trận lũ bất thường nên bọn Tào Nhân, Mãn Sủng dù đã ở đây lâu năm cũng không thể lường trước được, khiến quân của Vu Cấm rơi vào nạn lụt. Còn Quan Vũ bằng cách nào đó đã "tiên liệu được" và lợi dụng cơ hội đó để phá địch. Tháng 7 Quan Vũ phát động tấn công, vây lấy Tương Dương - Phàn Thành, có thể kế hoạch của Quan Vũ là dựa vào thời tiết đầu thu nhiều mưa, địa hình lầy lội để hạn chế kỵ binh của quân Tào, đồng thời lợi dụng ưu thế thủy quân Kinh Châu, nhưng trời mưa quá lớn đã ban cho ông một cơ hội còn lớn hơn dự tính. Do vậy, Quan Vũ thắng trận không hẳn là chỉ nhờ may mắn mà vì ông đã có sự chuẩn bị trước

Bàng Đức cùng tướng sĩ trốn lũ trên đê, chống trả quyết liệt từ sáng đến trưa, Cảnh Quan Vũ và [[Bàng Đức]] :La Quán Trung có tình tiết hư cấu rằng nhân vật Bàng Đức là mãnh tướng từng bắn bị thương cánh tay Quan Vũ, nhưng lại không biết bơi, bị nhân vật hư cấu là Châu Thương bắt sống.

Điển Lược viết: Khi (Quan) Vũ vây Phàn thành, (Tôn) Quyền sai sứ đến xin xuất binh giúp đỡ, song Quyền chẳng vội vã tiến binh, chỉ phái quan chủ bạ đến báo cho Vũ biết. Vũ giận vì đợi lâu, lại bởi lúc ấy mới bắt được bọn Vu Cấm, bèn mắng rằng: “Tặc tử sao dám vậy, ví như lấy xong Phàn thành, ta chẳng thể diệt hắn ư!” Quyền nghe nói vậy, biết Vũ coi rẻ mình, mới vờ viết thư tạ lỗi, hứa sẽ xuất binh giúp Vũ.

Tào Tháo định dời đô

Phàn thành rất nguy cấp, nhiều chỗ trong thành bị nước sông làm xói lở. Mãn Sủng động viên Tào Nhân giữ thành, vì nước lũ sẽ rút nhanh. Tại thành Tương Dương, Lã Thường cũng cố sức cầm cự trước sức tấn công của Quan Vũ. Hai thành bị vây ngặt, hoàn toàn không liên lạc được với nhau. Trước tình thế đó, các tướng Tào khác gồm thứ sử Kinh châu là Hồ Tu, thái thú Nam Dương là Trù Phương đều đầu hàng Quan Vũ.

Quan Vũ nhân đà thắng trận, dẫn quân tiến sâu vào Hiệp Hạ, kích động các bộ tộc thiểu số phản Tào. Nhiều lực lượng chống Tào ở phía nam Hứa Xương nhận ấn hiệu đi theo Quan Vũ. Trung nguyên chấn động.

Tào Tháo rất lo lắng, toan tính dời đô - đưa Hán Hiến Đế khỏi Hứa Xương. Sau nghe lời Tư Mã Ý và Tưởng Tế phân tích lợi hại, Tào Tháo mới quyết định không thiên đô, sai Từ Hoảng mang quân đi cứu Phàn Thành.

Bị Từ Hoảng đánh bại

Từ Hoảng nhận lệnh mang quân đến cứu Tào Nhân. Quân Tào lần này phần lớn là tân binh (quân tinh nhuệ theo Vu Cấm đã chết chìm hết), Tháo dặn dò Hoảng phải đợi tập hợp đủ binh lực, tránh tranh phong cùng quân Quan Vũ. Từ Hoảng đến Yển (偃) thành, giả vờ đào hào xung quanh để cắt đứt tiếp tế, quân Thục đốt đồn bỏ chạy, Yển thành bị Hoảng chiếm.

Quan Vũ đành dẫn quân giáp mặt Từ Hoảng, Từ Hoảng tự Công Minh, cũng là người quận Hà Đông, từ nhỏ Vũ và Hoảng đã quen biết nhau và quan hệ khá tốt. Thục ký viết: Vũ cùng Hoảng khi xưa rất quí trọng nhau, lúc ấy trông xa nói chuyện, chỉ nói chuyện thường ngày, không nhắc việc quân. Chốc lát, Hoảng quay đầu ngựa truyền lệnh:

Theo các nhà nghiên cứu Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, thì lúc này thủy quân của Quan Vũ vẫn chiếm cứ Miến Thủy, Tương Dương vẫn tiếp tục bị bao vây. Quân của Từ Hoảng tuy phá được vòng vây ở Phàn Thành nhưng không có thủy quân, nên không thể ứng cứu cho Tương Dương. Nhưng khi nghe tin Giang Lăng thất thủ, Quan Vũ phải bỏ vòng vây, lập tức dẫn binh quay về Nam, trên đường nhiều lần sai người đi do thám tin tức.

Tào Tháo không thừa thắng truy kích. Theo nhà nghiên cứu Dịch Trung Thiên, không phải vì nhân từ hay nghĩ tình cũ, mà chỉ muốn ngồi nhìn hai hổ đấu với nhau. Tào Tháo tin rằng Tôn Quyền đã mài dao từ lâu, tất sẽ không buông tay bỏ cuộc, và dự liệu đó là hoàn toàn chính xác.

Bị Đông Ngô đánh úp Kinh Châu

Lã Mông áo trắng sang đò

Về phía Đông Ngô, người chủ hòa với phe Lưu Bị là Lỗ Túc đã mất. Lã Mông lên thay, khuyên Tôn Quyền đánh chiếm Kinh Châu. Lúc mới nhậm chức, Mông gửi thư cho Quan Vũ, lời lẽ nhún nhường, khiến Vũ khinh nhờn. Sau đó Lã Mông lại giả xưng bệnh nặng, tiến cử Lục Tốn là người có tài nhưng chưa có tiếng kế vị. Tôn Quyền vờ phát hịch gọi Mông về, khiến Quan Vũ tưởng thật, lơ là phòng bị Đông Ngô, đã rút bớt quân Kinh châu điều đi đến Phàn Thành. Lã Mông đến Tầm Dương, giấu hết quân tinh nhuệ ở trong khoang thuyền, cho mặc áo trắng của lái buôn, chèo thuyền đi gấp ngày đêm đến đồn canh phòng mà Quan Vũ đặt ở bên sông, bắt trói hết quân ở đồn ấy nên Vũ vẫn không hay biết gì. Lã Mông tiếp tục kéo quân đến Nam Quận.

My Phương, Sĩ Nhân hàng Ngô

Quan Vũ vốn hay yêu quý sĩ tốt nhưng lại coi thường các sĩ phu, vì vậy hai tướng giữ hậu phương là My Phương và Sĩ Nhân vẫn bất mãn với ông. Khi Lã Mông dẫn quân bất thần kéo đến đánh, My Phương và Sĩ Nhân theo lời thư dụ của Ngu Phiên, không giao chiến đã đầu hàng, dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền. :Ngô lục viết: Trước đây, trong thành Nam Quận dẫn lửa, cháy kho vũ khí. (Quan) Vũ trách tội (My) Phương, Phương trong lòng sợ hãi, (Tôn) Quyền nghe tin mà dụ Phương, Phương ngầm hòa thân. Lúc (Lã) Mông đến đánh, bèn đem trâu, rượu ra hàng.

Trước khi Quan Vũ tiến đánh Tương - Phàn, ông vẫn để lại rất nhiều lính ở Giang Lăng chưa kể lực lượng từ các cứ điểm khác của Kinh Châu luôn sẵn sàng chi viện. Chỉ cần lực lượng trấn giữ Giang Lăng cố thủ, Quan Vũ có thể kịp về ứng cứu. Tuy tính toán cẩn thận đến vậy, Quan Vũ lại không lường được việc My Phương và Sĩ Nhân đầu hàng quân Ngô.

Giang Lăng và Công An mất vào tay Đông Ngô, vợ con các tướng sĩ của Quan Vũ bị bắt sống cả. Lã Mông hạ lệnh không được lấn ép người nhà tướng sĩ Kinh Châu, không được cướp đoạt, lại sớm tối sai người thân cận đi chăm sóc người già cả, thăm hỏi những nhà không đầy đủ, cấp thuốc, ban cơm áo cho người bệnh tật, đói rét. Tin tức đó truyền đến quan quân của Quan Vũ nên họ không còn lòng dạ chiến đấu nữa, dần tản mát hết. Đến nơi, ông lại biết tin Lục Tốn đã đánh chiếm được Nghi Đô. Trong khi Quan Vũ chờ đợi viện binh thì Mạnh Đạt và Lưu Phong án binh không đến cứu.

Hai cha con bị bắt giết

Sau khi bị Từ Hoảng đánh bại và bị Lã Mông lấy mất Kinh Châu, Quan Vũ đã cùng đường, nói theo Lưu Bị truyện của Trương Tác Diệu là “đã mất địa bàn, lại mất tướng sĩ, mất cả lòng dân”, chỉ còn đường chết.

Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng ông. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích, Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên một mặt giả vờ đầu hàng, sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng men theo đường núi để thoát khỏi vòng vây của Tôn Quyền để tới Ích châu hoặc Hán Trung (địa bàn của Lưu Bị).

Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường phục kích. Chu Nhiên để sổng Quan Vũ, nhưng bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt sống được Vũ cùng Quan Bình và Triệu Lũy. Cả Quan Vũ và Quan Bình cùng bị hành quyết tại chỗ. :Tam quốc diễn nghĩa có các tình tiết hư cấu kể rằng hai cha con họ Quan được giải từ Mạch Thành về đến tận kinh đô của Đông Ngô là Kiến Nghiệp. Tôn Quyền cố chiêu hàng nhân vật Quan Vũ nhưng không được, lại bị Vũ chửi mắng nên mới ra lệnh chặt đầu Vũ và Bình. Thủ cấp của hai cha con lại được đưa từ Kiến Nghiệp trở lại Mạch Thành, sau khi nhìn thấy thì Châu Thương (nhân vật hư cấu) nhảy xuống thành tự sát theo chủ. Đầu của Quan Vũ sau đó lại tiếp tục được đưa từ Mạch Thành tới Lạc Dương dâng cho Tào Tháo, nhưng đến lúc đó vẫn tươi y như khi còn sống.

Các sử gia đánh giá rằng: Lưu Bị và Quan Vũ có nhiều điều không phải với Tôn Quyền, nhưng việc Tôn Quyền ngầm đầu hàng Tào Tháo từng là kẻ thù chung để đánh lén sau lưng, giết chết Quan Vũ cũng là quá đáng. :La Quán Trung lại thêu dệt thêm chuyện mê tín dị đoan rằng sau khi Quan Vũ chết, hồn phách không tan, lượn lờ đòi trả lại đầu; sau nhờ gặp một nhà sư mới giác ngộ, biến mất, nhưng vẫn thường "hiển linh" để giúp người này người nọ. Thanh long đao (không có thật) của Quan Vũ bị Phan Chương lấy mất, còn ngựa Xích Thố (ngựa của Lã Bố, chưa bao giờ thuộc về Quan Vũ) được thưởng cho Mã Trung. Sau này hồn ma của Quan Vũ hiện lên để giúp con trai Quan Hưng giết Phan Chương đoạt lại đao (Quan Hưng thật ra là quan văn, bị chết yểu, qua đời trước Phan Chương), còn ngựa cũng bỏ ăn để chết theo "chủ".

Địa điểm Quan Vũ bị chặt đầu

Về việc Quan Vũ và Quan Bình bị giết chính xác ở đâu, Tam quốc chí ghi chép không rõ ràng.

:Quan Vũ truyện ghi: “Quyền sai tướng đánh Vũ, chém Vũ và con ở Lâm Thư”. :Ngô chủ truyện ghi: “Mã Trung bắt được Vũ và con là Bình cùng đô đốc Triệu Lũy ở Chương Hương”. :Phan Chương truyện ghi: “Phan Chương và Chu Nhiên ngăn đường Vũ, đến Lâm Thư, ở Giáp Thạch”.

Lâm Thư, Chương Hương, Giáp Trạch là các địa danh ở gần nhau.

Dịch Trung Thiên đưa ra lý giải là: Phan Chương và Chu Nhiên nhận lệnh đi ngăn đường phục kích Quan Vũ. Phan Chương lấy Lâm Thư làm quân doanh, sau đó cho quân đi mai phục ở Giáp Thạch. Giáp Thạch ở về phía tây bắc Chương Hương, sau khi bộ tướng là Mã Trung bắt được Quan Vũ ở Chương Hương đã áp giải Vũ về quân doanh ở Lâm Thư. Lúc này, lệnh của Tôn Quyền cũng vừa tới: "giết Quan Vũ", và Phan Chương đã hành quyết Quan Vũ ở Lâm Thư.

Tôn Quyền nộp thủ cấp, Tào Tháo hậu táng

Tôn Quyền sai người mang đầu Quan Vũ đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu ông đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu. Ngô lịch viết: Quyền đem đầu của Vũ đến chỗ Tào công, Tào công lấy lễ chư hầu mà an táng cho Vũ. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả tình tiết rằng Tào Tháo cho người dùng gỗ quý tạc thành thân người rồi chắp đầu lâu của Vũ vào an táng.

Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ. Mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo để muốn thiên hạ nghĩ rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào họ Tào; nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết ông. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền. :Trong Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung hư cấu nên chuyện rằng: "Ngày Tôn Quyền mở tiệc khao Lã Mông, hồn Quan Vũ đã quay về giết chết nhân vật Lã Mông. Vì hoảng sợ và để ly gián Ngụy và Thục nên Quyền đem đầu ông đến nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy vẫn hồng hào như còn sống. Cái đầu bổng trừng mắt ra nhìn, râu tóc dựng đứng lên; vì vậy nhân vật Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái phát bệnh đau đầu và không lâu sau cũng chết". Những tình tiết hư cấu này dựa trên một phần thực tế cái chết của Lã Mông và Tào Tháo: không lâu sau khi đánh chiếm được Kinh châu, Lã Mông trở về cũng ốm nặng rồi qua đời, còn Tào Tháo bị bệnh đau đầu lâu năm rồi chết.

Hậu quả của thất bại của Quan Vũ

Quan Vũ ra quân tháng 7 năm 219, trong vòng chưa được nửa năm (đến tháng 12 Âm Lịch) thì thất bại tan nát, không những cùng con trai mất mạng, để mất Kinh Châu, mà còn khiến phe Thục Hán tổn thất lực lượng nặng nề, chiến lược của Gia Cát Lượng vạch ra ở Long Trung không còn khả thi. Sau này, Trương Phi vì nóng vội đi trả thù, đánh đập tướng sĩ, bị Phạm Cương và Trương Đạt ám sát. Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ mà không suy tính lẽ thiệt hơn, mang quân đi đánh Tôn Quyền (năm 221), kết quả bị Lục Tốn đánh thua to, rồi bị bệnh mất. Rất nhiều quan tướng của Thục Hán cũng chết trận ở Ngô, như Mã Lương, Trương Nam, Phùng Tập, cha của Phó Thiêm là Phó Đồng... :La Quán Trung có ý muốn "trả thù" giùm cho Quan Vũ, đã hư cấu nên việc Quan Hưng, Trương Bào làm tiên phong, giúp Lưu Bị thắng lớn nhiều trận, và những người đã hại Vũ như My Phương, Sĩ Nhân, Mã Trung, Phan Chương, Chu Nhiên đều bị giết... Trên thực tế đa phần những nhân vật lịch sử này đều sống thọ hơn cả Lưu Bị, và quân tướng Đông Ngô chịu rất ít tổn thất. Hơn nữa, Quan Hưng và Trương Bào đều mất sớm, chưa từng làm tướng.

Mộ phần và sự nghiệp sau cái chết

Đến năm 260, Hậu chủ Lưu Thiện truy phong thụy hiệu cho Quan Vũ là Tráng Mậu Hầu (壯繆侯). Vũ là 1 trong số 12 công thần Thục Hán được truy phong thụy hiệu (cùng với Pháp Chính, Gia Cát Lượng, Tưởng Uyển, Phí Vĩ, Trần Tự, Hạ Hầu Bá, Trương Phi, Mã Siêu, Bàng Thống, Hoàng Trung, Triệu Vân).

Hai ngôi mộ chôn cùng phụ nữ

Xác chết của Quan Vũ đầu một nơi, thân một nẻo, nên dân gian đặt ra câu nói: "Đầu ở Lạc Dương, thân nằm Tương Dương, hồn về cố hương (Sơn Tây)". Phần đầu của Vũ được Tôn Quyền dâng cho Tào Tháo, Tháo cho chôn tại Lạc Dương. Phần thân thì táng ven sông nơi Quan Vũ và con trai bị chặt đầu, nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc.

Hai ngôi mộ được cho là ban đầu rất đơn sơ. Đến thời nhà Tùy và sau này là nhà Đường, mộ được tu sửa, trở nên bề thế, tráng lệ hơn. Đến thời nhà Minh, hai ngôi mộ Quan Vũ đều trở thành "Quan lăng" với quy mô khổng lồ, vô cùng uy nghi.

Gần đây, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã khai quật mộ Quan Vũ, phát hiện mỗi ngôi mộ này đều có một hài cốt phụ nữ được chôn cùng, đến nay không thể xác định là ai, nhưng gây ra nhiều đồn đoán vô căn cứ như "có thể đó là Điêu Thuyền" (một nhân vật hư cấu).

Quá trình được phong thánh

Theo giáo sư tiến sĩ người Hà Lan Barend Ter Haar, một nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc của Đại học Hamburg và tác giả sách Guan Yu: The Religious Afterlife of a Failed Hero (ISBN 9780198803645), "sự nghiệp tâm linh kiếp sau" của Quan Vũ bắt đầu với giai đoạn là một vong hồn được dân địa phương lập miếu thờ để cầu an, qua mấy trăm năm trắc trở đến thời nhà Đường thì được "phong thánh" trở thành "Quan Công", được đưa vào miếu thờ của Phật giáo. Đến thời nhà Tống, "Quan Công" được đưa vào nghi lễ cúng bái trừ tà của Đạo Giáo, rồi đến thời nhà Minh, nhà Thanh, được phong làm "Quan Thánh", "Quan Đế".

Sau khi Thục Hán diệt vong, sự sùng bái Quan Vũ ở đất Thục (Tứ Xuyên) dần biến mất có lẽ do ông quanh năm chinh chiến ở bên ngoài. Nơi sùng bái Quan Vũ nhất là vùng Kinh Châu, nơi ông đóng quân khá lâu, đặc biệt là ở Lâm Thư nơi ông bị giết.

Bắt nguồn từ tâm lý mê tín của người xưa, dần dần xuất hiện những đồn đại về hồn ma Quan Vũ "hiển linh" ở Tương Dương nơi ông bị chặt đầu. Dân chúng Tương Dương lo sợ oan hồn ông báo thù nên xây một ngôi mộ, bắt đầu tế lễ Vũ như một "cô hồn dã quỷ", cầu mong đừng báo oán. Lúc này, Quan Vũ chưa trở thành "Quan Công", nhưng đây được cho là bước đầu để mở đường cho ông bước lên bệ thần thánh. Do tâm lý khiếp sợ hồn ma Quan Vũ báo thù, nên thời gian đầu các miếu thờ Quan Vũ có kiến trúc âm u, tượng ông được tạc với hình dạng hung dữ, đáng sợ. Việc thờ cúng Quan Vũ khi đó cũng chỉ mang tính khu vực (Tương Dương), không xuất hiện ở các địa phương khác.

Hơn 500 năm sau khi Quan Vũ chết, năm 731, Đường Minh Hoàng cho xây Võ miếu đầu tiên gọi là Thái Công Thượng phụ miếu, thờ chủ thần là Khương Thái Công (Khương Thượng, tức Lã Vọng) cùng 10 danh tướng các thời, chia làm 2 bên. Bên trái gồm: Bạch Khởi, Hàn Tín, Gia Cát Lượng, Lý Tĩnh, Lý Tích. Bên phải gồm: Trương Lương, Điền Nhương Thư, Tôn Vũ, Ngô Khởi, Nhạc Nghị. "Thập triết" không có Quan Vũ, chứng tỏ tâm lý tôn sùng "Quan Công" lúc này vẫn chưa lớn mạnh.

Đến năm 782, Đường Đức Tông tăng số tướng trong Võ miếu thêm 64 người. Trong số mới được thêm vào có Tôn Tẫn, Liêm Pha, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, Quan Vũ, Trương Phi, Chu Du, Đặng Ngải... Qua đó cho thấy địa vị của Quan Vũ lúc này cũng chỉ ngang các tướng thời Tam Quốc khác như Trương Phi, Chu Du, Đặng Ngải.

Đến thời Ngũ đại Thập quốc, Hậu Thục (934-965) thành lập tại Thành Đô, chỉ truy phong Gia Cát Lượng và Trương Phi làm vương, Quan Vũ vẫn chỉ tước hầu, không được nhắc gì đến, chứng tỏ vẫn chưa được xem trọng.

Đầu thời Bắc Tống (960-1127), hoàng đế Tống Thái Tổ ra lệnh đưa tượng Quan Vũ ra khỏi Võ miếu vì cho rằng Vũ từng đầu hàng địch, không xứng đáng được thờ. phao tin rằng ông "được thần Quan Vũ phù hộ" nhằm tạo sự huyền bí cho bản thân trên chiến trường. Quân sĩ Mãn Thanh cũng đem theo hình Quan Vũ trong mình để được bảo vệ (mặc dù họ đang đánh nhà Minh của người Hán, và Quan Vũ là người Hán). thumb|Tranh vẽ [[Bồ tát Quan Vũ thời Càn Long]] Để khuyến khích lòng trung thành với vua chúa, và một phần cũng để lấy lòng người Hán, các Hoàng Đế nhà Thanh sau đó liên tục phong tước cho Quan Vũ, tên thụy ngày càng dài ra (lên đến 24, 26 chữ như Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Thánh Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế, nên phải gọi tắt là "Quan Thánh").

Càn Long cho thêu dệt nên câu chuyện Quan Vũ "hiển linh" đi sau kiệu hộ giá nhà vua: Càn Long ngồi kiệu vẫn hay nghe tiếng dép lẹp kẹp đi theo sau, quay lại thì không thấy ai, Vua hỏi "ai theo hộ giá trẫm thế?" thì nghe trả lời "nhị đệ Quan Vân Trường", Vua phong làm "Tài Thần" (Quan Vũ là người Hán nhưng lại bảo vệ Hoàng Đế Mãn Thanh, khiến các hội Phản Thanh phục Minh mất đi khí thế). và theo nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc Barend Ter Haar thì hình tượng Quan Công được thờ cúng ở đây là "hình tượng trong văn học và dân gian", không hoàn toàn giống với Quan Vũ trong lịch sử.

Gia đình và hậu duệ

Quan Vũ có ít nhất là 3 người con: Quan Bình, Quan Hưng, và một con gái. Con cả Quan Bình theo ông đi chiến trận, bị Đông Ngô bắt giết cùng ông (năm 219). Con thứ Quan Hưng lớn lên ở Ích Châu, được cất nhắc làm Thị trungTrung giám quân, cũng chỉ làm quan được một thời gian rồi qua đời sớm. :Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung, nhân vật Quan Bình bị sửa thành con nuôi, còn nhân vật Quan Hưng trở thành mãnh tướng đi trả thù cho cha.

Quan Vũ còn có ít nhất là một người con gái, vì Tôn Quyền từng định hỏi cho con trai mình để kết thông gia nhưng Vũ từ chối, sỉ nhục sứ giả, gây nên bất hòa sau này. Thời phong kiến phụ nữ thường ít khi được ghi lại tên tuổi, nên chỉ được biết đến là Quan Thị. Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa viết rằng Quan Vũ gọi con gái mình là "Hổ Nữ", còn con trai Tôn Quyền là "loài chó". :Người đời sau hư cấu thêm rằng: dù là thân nữ nhi nhưng 18 tuổi cô này đã sớm được Gia Cát Lượng tin dùng, đem theo phò trợ mình thảo phạt Nam Man... Nhân vật này xuất hiện trong kịch, phim ảnh Trung Quốc và các trò chơi điện tử của Đài Loan, Nhật Bản với nhiều tên khác nhau như Quan Ngân Bình (關銀屏), Quan Phụng (關鳳), Quan Nga (關娥), Quan Tam Tiểu Tỷ (關三小姐), Quan Thị Tam Tỷ (關氏三姐)...

Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung, nhân vật Quan Vũ còn có người con trai thứ ba tên là Quan Sách. Nhân vật hư cấu này từng tham gia Nam chinh chống Mạnh Hoạch cùng với Gia Cát Lượng. :Nhân vật Quan Sách còn được xuất hiện trong kịch và các truyện khác với tên gọi "Hoa Quan Sách", có vợ là các nhân vật hư cấu "Bào Tam Nương" và "Hoa Man" (con gái của Mạnh Hoạch và nhân vật hư cấu Chúc Dung)

Gia tộc chịu nạn

Đến đời cháu, con trưởng của Quan Hưng là Quan Thống làm tới chức Hổ bôn trung lang tướng, cũng mất sớm không có con trai. Người con thứ của Quan Hưng là Quan Di, sau khi Quan Thống mất, được tập tước Hán Thọ đình hầu.

Khi Thục Hán diệt vong (264), con Bàng Đức là Bàng Hội theo Chung Hội - Đặng Ngải vào Tây Xuyên, đã tìm hết nhà họ Quan ở Thành Đô tàn sát để trả thù cho cha, dòng họ Quan Vũ từ đó bị diệt vong. tôn sùng Quan Vũ bắt đầu từ những người dân không cùng huyết thống với ông. Nhiều thế kỷ sau bắt đầu có những người họ Quan tuyên bố họ là con cháu Quan Vũ, và đến thời nhà Minh (trùng với thời điểm Quan Vũ được phong vương, phong thánh, phong đế) thì bắt đầu có tập tục thờ cúng Quan Vũ như là tổ tiên dòng họ.

Hiện nay có bộ sách "Quan thị gia phổ" gồm 12 quyển, trải suốt gần 1.900 năm, được tu bổ vào đời Càn Long nhà Thanh, chỉnh lý lần cuối vào năm 1932. Theo bộ gia phả này ghi chép thì khi nhà Thục Hán sụp đổ, một số con cháu của Quan Di đã kịp bỏ trốn và đổi thành họ Môn để tránh họa, đến đời Tây Tấn mới lấy lại họ Quan. Nhánh hậu duệ này của Quan Vũ được cho là có nhiều người tài giỏi nổi tiếng, như: Quan Lang - đại thần đời Bắc Ngụy, Quan Khang Chi - danh nho đời Nam triều, Quan Phiên - tể tướng đời Đường...

Đến năm 2010, ông Quan Trung Kim, theo "Quan thị gia phổ" ghi chép thì là hậu duệ đời thứ 67 của Quan Vũ, trú tại thị trấn Hoàng Sơn Đầu (huyện Công An, tỉnh Hồ Bắc) là người đang giữ bộ gia phả này. Ông Quan Anh Tài - cháu đời thứ 72 - là cự phú công thương Đông Nam Á và là Chủ tịch của Tổng hội Long Cương quốc tế (thành viên gồm những người được cho là hậu duệ của Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi và Triệu Vân)

Nhận định

Sử gia Trần Thọ, tác giả bộ chính sử Tam quốc chí có đánh giá về Quan Vũ được đời sau ghi nhận là công bằng: :Quan Vũ… sức địch vạn người, hổ thần một thời. Vũ báo ơn Tào công… có phong độ quốc sĩ. Nhưng Vũ cương và tự phụ,… lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy..

Ngày nay, Quan Công là nhân vật có nhiều miếu thờ bậc nhất tại Trung Quốc. Cả cảnh sát và xã hội đen Hồng Kông, bao gồm Hội Tam Hoàng, đều thờ Quan Công. Cảnh sát coi Quan Công là vị thánh biểu tượng cho lòng trung thành, sự công minh, nhân từ, dũng cảm và đáng tin cậy, tinh thần liêm khiết không màng vinh hoa phú quý. Xã hội đen Hong Kong thì thờ Quan Công vì cho rằng ông là biểu tượng của tình huynh đệ, một lòng trung thành với chủ và khí phách hiên ngang đối mặt với hiểm nguy, dù chết cũng không sờn lòng.

Chê

Theo Tục tư trị thông giám, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận chê Quan Vũ làm tướng mà chịu bị địch bắt, nên khi đi thăm Võ miếu đã chỉ mặt tượng Quan Vũ mắng rằng: "Sợ chết đầu hàng, quá ư bất vũ! Sao đáng được thờ ở đây?", rồi sai đem tượng của Vũ ra khỏi Võ miếu. Tuy nhiên sau này khi xét duyệt thêm danh tướng được thờ trong miếu, Tống Thái Tổ lại cho đưa tượng của Quan Vũ vào lại Võ miếu.

Các nhà sử học đánh giá Quan Vũ là người kiêu ngạo, không chịu ở dưới người khác. Năm 214, nghe tin Mã Siêu đến hàng Lưu Bị ở Tây Xuyên, Quan Vũ đang ở Kinh châu bèn viết thư cho Gia Cát Lượng hỏi: "Nhân phẩm, tài năng của Mã Siêu có thể so sánh với ai?" Gia Cát Lượng phải lựa lời viết thư lấy lòng Quan Vũ: "Mã Siêu chỉ có thể sánh ngang với Trương Phi, không thể siêu phàm tuyệt luân như ngài!" Ông đọc thư rất đắc ý và mang thư khoe với nhiều người. Quan Vũ thấy mình ở ngang hàng với Hoàng Trung thì không bằng lòng, không chịu nhận ấn tín. Phí Vĩ phải lựa lời khuyên ông nên vì nghiệp lớn của Lưu Bị, ông mới gác lại chuyện này và thụ phong.

:Về việc này, sử gia Dịch Trung Thiên cho rằng cách hành xử của Gia Cát Lượng và Phí Vĩ đã quá "nuông chiều" Quan Vũ, gây ra "tác dụng phụ" biến Quan Vũ thành "đứa trẻ hư vì được nuông chiều" với hai đặc điểm: phóng túng và ngây thơ, nên mới phạm sai lầm trong xử lý quan hệ giữa ta với kẻ thù hoặc bè bạn. Vì phóng t

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
Đây là danh sách các cơ quan chính phủ tham gia vào các hoạt động liên quan đến khám phá không gian và vũ trụ. Tính đến năm 2018 đã có 72 cơ quan vũ
**Cơ quan nhà nước cho các hoạt động không gian "Roscosmos"** (), cũng được gọi là **Roskosmos** (), tiền thân là **Cơ quan Vũ trụ Nga**, rồi **Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Nga**,
**Cơ quan Vũ trụ Canada** (CSA hay, trong Tiếng Pháp, l 'Agence spatiale canadienne, ASC) là một cơ quan vũ trụ của Canada chịu trách nhiệm các chương trình không gian của đất nước này.
nhỏ|Tổng hành dinh tại Paris **Cơ quan Vũ trụ châu Âu** (tiếng Anh: _European Space Agency_, viết tắt: _ESA_) là một tổ chức liên chính phủ được thành lập năm 1975, chuyên trách việc thám
**Cơ quan Vũ trụ Israel** (, _Sochnut HaHalal HaYisraelit_, tiếng Anh: **ISA**, Israel Space Agency) là một cơ quan chính phủ nghiên cứu vũ trụ, thành phần của Bộ Khoa học và Công nghệ Israel,
**Cơ quan Vũ trụ Syria** () là tổ chức do chính phủ Syria điều hành dưới sự giám sát của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Công nghệ Iyad Mohammed al Khatib và dành riêng
**Cơ quan Vũ trụ Iran** (tiếng Ba tư: سازمان فضایی ایران _Sázmán e Fazái e Irán_; tiếng Anh: Iranian Space Agency, viết tắt là **ISA**), là cơ quan không gian của chính phủ Iran. Iran
**Cơ quan Vũ trụ Anh quốc** viết tắt là UKSA (tiếng Anh: _United Kingdom Space Agency_ hay _UK Space Agency_) là cơ quan điều hành của Chính phủ Vương quốc Anh, chịu trách nhiệm cho
là cơ quan hàng không vũ trụ và không gian quốc gia của Nhật Bản. Thông qua việc sáp nhập ba tổ chức độc lập trước đây, JAXA được thành lập vào ngày 1 tháng
**Quan Bình** (關平, 178-221) là vị tướng của Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Quan Bình là con trai trưởng của Quan Vũ, và là anh trai của Quan Hưng. Tuy
**Cục Vũ trụ Quốc gia Trung Quốc** (CNSA) là cơ quan vũ trụ quốc gia của Trung Quốc. Nó chịu trách nhiệm cho chương trình không gian quốc gia về việc lập kế hoạch và
Biểu trưng của CNES **Trung tâm Nghiên cứu Vũ trụ Quốc gia Pháp** viết tắt là **CNES** (_Centre National d'Études Spatiales_), một cơ quan vũ trụ được điều hành bởi chính phủ Pháp (trực thuộc
**Trung tâm vũ trụ Guyane** (, CSG) là một sân bay vũ trụ của Pháp và châu Âu nằm gần Kourou tại Guyane thuộc Pháp. Trung tâm này hoạt động từ năm 1968, vị trí
**Chu Quán Vũ** (Giản thể: 周冠宇; pinyin: _Zhōu Guànyǔ_; sinh ngày 30 tháng 5 năm 1999) là một tay đua ô tô người Trung Quốc. Chu Quán Vũ là tay đua người Trung Quốc đầu
**Quan Sách** (chữ Hán: 關索, bính âm: Guan Suo) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này, Quan
ISA là một Cơ quan Vũ trụ của nước Ý. Cơ quan được thành lập vào năm 1988. Đây cũng là một trong những cơ quan thành viên của ESA
Theo thuyết Vụ Nổ Lớn, [[vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng). Một lý giải thường gặp đó là không gian tự nó đang
Bức hình so sánh giữa hai ngọn đèn: một bên là lửa ở trên [[Trái Đất (bên trái) và một bên là lửa ở trong môi trường vi trọng lực (bên phải), một ví dụ
**Vu Cấm** (chữ Hán: 于禁; ?-221), tên tự là **Văn Tắc** (文则), là một võ tướng cuối thời Đông Hán, thuộc hạ của Tào Tháo. Vu Cấm gia nhập quân Tào năm 192, khi nội
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
**Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ** (_United States Marine Corps_) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm phòng vệ vũ trang và tiến công đổ bộ từ phía biển, sử
**Vũ** hay **Võ** (武) là một họ phổ biến tại Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên và Hàn Quốc. Số lượng người mang họ Vũ phổ biến đứng thứ 7 với 3,9% dân số tại
**Vụ án Năm Cam và đồng phạm** hay **Chuyên án Z5.01** là vụ án về tội phạm có tổ chức đặc biệt, có tính đặc thù, đây là một vụ án lớn và phức tạp,
**Phan Văn Anh Vũ** (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1975), biệt danh **Vũ nhôm**, là một doanh nhân Việt Nam. Ông sống tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, được xem là _trùm_
Lực lượng vũ trang Cộng hòa Ý được thiết lập sau khi các tiểu vương quốc riêng hợp nhất thành nhà nước Ý trong giai đoạn thế kỷ 19. Lực lượng vũ trang gồm ba
**Vu Thành Long** (26 tháng 9 năm 1617 – 31 tháng 5 năm 1684) tự **Bắc Minh** (北溟) hay **Bắc Khê** (北溪),**_' hiệu **Vu Sơn** (於山),_**' là một vị quan thanh liêm nổi tiếng của
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
nhỏ|phải|Chân dung Vũ Phạm Khải **Vũ Phạm Khải** (chữ Hán: 武范啟, 1807 – 1872), là một vị quan tiến bộ của triều đình nhà Nguyễn, một trong những vị quan tích cực nhất trong phái
**Vũ Văn Dũng** hay **Võ Văn Dũng** (chữ Hán: 武文勇) (1750 - 1802), là một danh tướng của nhà Tây Sơn, đứng đầu trong Tây Sơn thất hổ tướng. Ông là người được vua Quang
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Quan Vân Trường** (chữ Hán phồn thể: 關雲長, chữ Hán giản thể: 关云长, bính âm: Guān Yúncháng, tựa tiếng Anh: **The Lost Bladesman**) là một bộ phim điện ảnh Trung Quốc - Hồng Kông được
**Đặng Vũ** (, 2 - 58), tên tự là **Trọng Hoa**, người Tân Dã, Nam Dương, tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, đứng đầu Vân Đài nhị thập bát tướng. ## Từ
**Trương Tông Vũ** (chữ Hán: 张宗禹, bính âm: Zhāng Zōng Yǔ), không rõ năm sinh năm mất, ước đoán được sinh ra vào khoảng cuối đời Gia Khánh – đầu đời Đạo Quang, nhà Thanh
**Vụ Trịnh Xuân Thanh trở về Việt Nam** là một câu chuyện có 2 phiên bản khác nhau. Chính vì 2 phiên bản trái ngược đưa đến một cuộc khủng hoảng quan hệ ngoại giao
nhỏ| Một cái nhìn về [[bầu khí quyển của Trái Đất với Mặt trăng bên kia]] **Hàng không vũ trụ** là những nỗ lực của con người trong nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và
Vào chiều ngày 4 tháng 8 năm 2020, hai vụ nổ xảy ra tại bến cảng của thành phố Beirut, thủ đô nước Cộng hòa Liban. Vụ nổ thứ hai rất mạnh đã khiến ít
**Vụ phát tán video "Vàng Anh"**, hay còn gọi **Vụ chia sẻ clip sex "Vàng Anh"**, là một vụ phát tán video ghi lại cảnh quan hệ tình dục giữa nữ ca sĩ, diễn viên
**Hoạn quan** (chữ Nho: 宦官) hay **quan hoạn** là người đàn ông do khiếm khuyết ở bộ phận sinh dục nên không thể có gia đình riêng, được đưa vào cung vua chúa để hầu
**Vũ Thần** (武臣; ?-208 TCN) là một tướng và vua chư hầu của quân khởi nghĩa chống lại nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc. ## Vũ Tín quân Theo Sử ký, Vũ Thần là
**Vũ Trinh** (**武楨**, 1759 - 1828) (楨 Trinh nghĩa là trụ cột, cơ sở; 國之楨榦 "Quốc chi trinh cán": người làm căn bản cho nhà nước), tự Duy Chu (**維周**) hiệu Huệ Văn tiên sinh,
**Vũ Văn Sĩ Cập** (tiếng Trung: 宇文士及, bính âm: Yǔwén Shìjí) (? - 11 tháng 11 năm 642), tự **Nhân Nhân** (仁人), thụy hiệu **Dĩnh Túng Công** (郢縱公), là người Trường An, Ung Châu. Ông
**Vụ sai phạm tại Tập đoàn Thuận An** là vụ sai phạm liên quan đến đấu thầu, tham nhũng diễn ra xung quanh Tập đoàn Thuận An do ông Nguyễn Duy Hưng sáng lập và
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Quan đao** là một loại vũ khí dài Trung Quốc được sử dụng trong một số hình thức võ thuật Trung Quốc. Trong tiếng Trung, nó còn được gọi là _yển nguyệt đao_ (偃月刀; "đao
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, đã từng xảy ra không ít các bê bối. Dưới đây là danh sách những bê bối nổi bật, được liệt kê theo năm. ## Năm 2008 ###
**Trung tâm Vũ trụ Việt Nam** ( ) là cơ quan thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có trách nhiệm nghiên cứu – triển khai, đào tạo, ứng dụng công
nhỏ|240x240px|[[Lục quân Đại Hàn Dân Quốc duyệt binh]] **Lục quân** (còn gọi là **lực lượng mặt đất** hay **lực lượng trên bộ)** là lực lượng quân sự chiến đấu chủ yếu chiến đấu trên bộ.
**Lực lượng Vũ trang Cộng hòa Hồi giáo Iran** (tiếng Ba tư: نيروهای مسلح جمهوری اسلامی ايران) gồm Quân đội Cộng hòa Hồi giáo Iran (tiếng Ba tư: ارتش جمهوری اسلامی ایران), Vệ binh Cách
thumb|upright=1.20|[[Axit nucleic có thể không phải là dạng phân tử duy nhất trong vũ trụ có khả năng mã hóa các quá trình sống.]] **Sinh học vũ trụ** là lĩnh vực nghiên cứu về nguồn