✨Nguyên Vũ (Bắc Ngụy)

Nguyên Vũ (Bắc Ngụy)

Quảng Lăng Huệ vương Nguyên Vũ (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy.

Khởi nghiệp

Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn đế, mẹ là Mạnh tiêu phòng. Là thành viên của hoàng thất Bắc Ngụy, ban đầu Vũ có họ là Thác Bạt; sau khi Hiếu Văn đế tiến hành Hán hóa (495), hoàng thất được đổi sang họ Nguyên, vì vậy sử cũ đều gọi ông là Nguyên Vũ.

Do sớm mất cha (476), đến thời anh trai Hiếu Văn đế ở ngôi, Vũ mới được nhận tước vị. Năm Thái Hòa thứ 9 (485), Vũ được phong Quảng Lăng vương, gia vị là Thị trung, Chinh đông đại tướng quân, làm Ngoại đô đại quan. Vũ từ nhỏ thông tuệ, được tiếng là giỏi xử án. Sau khi triều đình bãi bỏ chức 3 Đô ngoại quan (493) , Vũ được làm Đại lý, gia vị Vệ tướng quân, xử lý án kiện của kinh sư, cũng có tiếng tốt. Sau đó Vũ được thăng vị là Đặc tiến, Thượng thư tả bộc xạ, lại làm Thái tử thái bảo, Lục thượng thư sự.

Hiếu Văn đế sắp đánh Nam Tề, sai Vũ cầm cờ tiết đi vỗ về Lục trấn, phát động đột kỵ của họ, khiến người tộc thiểu số hài lòng. Sau khi trở về, Vũ được lãnh chức Đình úy khanh. Xa giá lên đường, Vũ được cùng Thái úy, Đông Dương vương Nguyên Phi làm Lưu thủ, gia vị Sứ trì tiết. Hiếu Văn đế yêu mến các em trai, đến khi tạm biệt, không đành lòng sớm chia tay, giáng chiếu cho Vũ đi theo đến Nhạn Môn, mới lệnh cho ông quay về. Hiếu Văn đế mong mỏi Vũ xứng với chức trách, nên ban cho ngọc Như ý để biểu lộ tấm lòng của mình.

Phù tá Hiếu Văn đế

Triều đình quyết định dời đô, giáng chiếu cho Vũ kiêm Thái úy, sai ông cáo với miếu xã. Sau khi dời đến kinh đô mới Lạc Dương, người tộc thiểu số phương bắc phần nhiều chưa bằng lòng, Vũ kềm chế và vỗ về họ, trong ngoài yên ổn, được Hiếu Văn đế khen ngợi.

Mùa xuân năm thứ 18 (494), Vũ dâng biểu xin từ chức Đình úy, Hiếu Văn đế không đồng ý.

Vũ lại kiến nghị áp dụng tiêu chuẩn khảo sát quan viên trong kinh tương tự với quan viên ngoài trấn: chia làm 3 đẳng thượng – trung – hạ; sau khi cân nhắc, Hiếu Văn đế quyết định chia thượng – hạ đẳng làm 3 phẩm, trung đẳng chỉ có 1 phẩm như cũ.

Vũ trình tâu danh sách các viên Tư trực (phụ tá) của 5 cục thuộc Đình úy, Hiếu Văn đế chất vấn ông và Thiếu khanh Đặng Thuật, về việc tại sao lại có lời đồn rằng 5 cục kém cỏi. Vũ biện bạch rằng triều đình mới đổi pháp chế, quan viên của 5 cục chưa quen.

Hiếu Văn đế trách mắng bọn Thượng thư không tròn chức trách, chỉ trích Vũ là người có địa vị tôn quý, chức vụ trọng yếu, nhưng từ khi dời đô không có công tích gì, lại còn kết bè kéo đảng; đế truất chức Đình úy, Thượng thư của ông, cho giữ lại vị Đặc tiến, Thái bảo. Sau đó Hiếu Văn đế trừng phạt một loạt quan viên cao cấp của triều đình Bắc Ngụy.

Triều đình đặt ra Ngũ đẳng tước, Vũ được ăn lộc của 2000 hộ thuộc huyện Đông Quang, quận Bột Hải. Hiếu Văn đế tiến đánh Nam Tề, Vũ được tiến hiệu Vệ tướng quân, trừ chức Sứ trì tiết, Đô đốc Thanh, Tề, Quang, Nam Thanh 4 châu chư quân sự, Chinh đông đại tướng quân, Khai phủ, Thanh Châu thứ sử. Xét công lưu thủ khi dời kinh, Vũ được tăng ấp 500 hộ. Hiếu Văn đế ghé thăm nhà của Vũ, nhân dịp ông vừa khỏi bệnh và sắp thành hôn, cho gia vị là Tán kỵ thường thị, tiến hiệu Xa kỵ đại tướng quân, còn lại như cũ.

Những năm cuối đời

Tuyên Vũ đế lên ngôi, Vũ được thăng làm Tư Châu mục, thường thị như cũ. Vũ nhiều lần dâng biểu từ chối chức Mục, đều không được đồng ý. Tuyên Vũ đế coi chầu, sau đó gọi Vũ vào nội điện, cho thụ chức Tư đồ. Bấy giờ Bắc Hải vương Nguyên Tường đố kỵ với Bành Thành vương Nguyên Hiệp, tìm cách xúc xiểm để giành chức Tư đồ của Hiệp. Vũ vừa ngại thanh danh của Hiệp, lại càng sợ tính xấu của Tường, nên xin đổi làm Tư không, Tuyên Vũ đế cố ép nhưng không được, đành đồng ý với ông.

Vũ tư thông với vợ của Viên ngoại lang Phùng Tuấn Hưng (con trai út của Phùng Hi – anh trai cả của Phùng thái hậu), trong đêm tìm vui, bị Tuấn Hưng đánh, còn đem ông giấu đi nhiều ngày. Vũ mất ở phủ, hưởng dương 32 tuổi. Tuyên Vũ đế đích thân đến viếng, thương khóc đau xót, giáng chiếu cấp Đông viên Ôn minh bí khí, 1 bộ triều phục, 1 bộ áo liệm, 60 vạn tiền, 1000 xúc vải, 300 cân sáp, Đại hồng lư lo việc tang. Đến khi liệm, đế đích thân tham dự, cử ai ở dịch trạm của kinh đô. Vũ được tặng Sứ trì tiết, Thị trung, Phiếu kỵ đại tướng quân, Tư đồ công, Ký Châu thứ sử, cấp cho Vũ bảo Cổ xuy, 40 võ sĩ đeo Ban kiếm, thụy là Huệ. Đến khi chôn cất, đế đích thân đi đưa.

Thời Bắc Ngụy Tiết Mẫn đế, Vũ được truy tôn là Tiên đế.

Gia đình

Vợ

  • Vương phi Trịnh thị: Trong quá trình Hán hóa, Hiếu Văn đế ép buộc toàn bộ hoàng thất Bắc Ngụy giáng những bà vợ cả người Tiên Ti xuống làm vợ lẽ, yêu cầu họ thành hôn với con gái của những sĩ tộc cấp cao người Hán. Không rõ người vợ Tiên Ti của Vũ là ai, chỉ biết ông phải lấy con gái của sĩ tộc họ Trịnh ở quận Huỳnh Dương làm vương phi. Tiết Mẫn đế muốn lập Trịnh thị làm Hoàng thái hậu, nhưng Trịnh thị e sợ thời cuộc loạn lạc, kiên quyết từ chối, quả nhiên tránh được tai vạ.
  • Một người thiếp là Vương thị, mất sớm, được Tiết Mẫn đế truy tôn là Tiên Thái phi.

Con trai

  • Nguyên Hân, là con trai trưởng nhưng không phải con đích, nên không được kế tự. Hân là một trong 8 Trụ quốc của nhà Tây Ngụy.
  • Nguyên Cung, là con trai thứ, do Vương thị sinh ra, được Trịnh thị nhận nuôi, nên được kế tự. Cung về sau được liên quân họ Nhĩ Chu lập làm hoàng đế, tức là Tiết Mẫn đế.
  • Nguyên Vĩnh Nghiệp, không rõ tuổi tác hơn kém so với Nguyên Cung. Vĩnh Nghiệp được Tiết Mẫn đế phong tước Cao Mật vương, được nhà Đông Ngụy gia vị là Kim tử quang lộc đại phu. Đời Bắc Tề, Vĩnh Nghiệp bị giáng xuống tước công theo lệ.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Nguyên Lãng** () (513–532), tên tự **Trọng Triết** (仲哲), thường được biết đến với tước hiệu trước khi lên ngôi là **An Định vương** (安定王), vào một số thời điểm được gọi là **Hậu Phế
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế** () (498 – 21/6/532), cũng gọi là **Tiền Phế Đế** (前廢帝), hay còn được gọi với tước hiệu trước khi lên ngôi là **Quảng Lăng vương** (廣陵王), tên húy là
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**An Đồng** (chữ Hán: 安同, ? – 429), sinh quán Liêu Đông, là quan viên, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Tổ tiên của Đồng tên
**Tân Hùng** (chữ Hán: 辛雄, 485 – 534), tự Thế Tân, người Địch Đạo, Lũng Tây , quan viên cuối đời Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Cha là Tân Sướng, tự Ấu Đạt, được làm
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
**Minh Nguyên Mật hoàng hậu** (chữ Hán: 明元密皇后; ? - 420), còn gọi là **Đỗ phu nhân** (杜夫人) hoặc **Mật quý tần** (密贵嫔), là người huyện Nghiệp Nhân, Ngụy quận, là phi tần của Bắc
**Lưu quý nhân** (chữ Hán: 劉贵人, ? - 409), là vợ của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, vua đầu tiên của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Lưu thị nguyên là con gái
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Đạo Vũ Mộ Dung Hoàng hậu** (chữ Hán: 道武慕容皇后), là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế Thác Bạt Khuê - vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Nguỵ trong lịch
**Hầu Mạc Trần Kiến** (chữ Hán: 侯莫陈建, ? – 485), quen gọi là **Trần Kiến**, người bộ lạc Hầu Mạc Trần, dân tộc Tiên Ti, có hộ tịch ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây),
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后), không rõ tên thật, là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế Nguyên Cung trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Khá ít thông tin về
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Nga Thanh** (chữ Hán: 娥清, ? - ?) người quận Đại , dân tộc tiên Ti, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy. ## Cuộc đời và sự nghiệp ### Thời Minh Nguyên đế Thanh sớm tỏ
**Lưu Huy** (chữ Hán: 刘晖, ? – 523), tự **Trọng Xương**, là phò mã nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con kế tự của Tề quận công
**Hiếu Văn Phế Hoàng hậu Phùng thị** (chữ Hán: 孝文廢皇后馮氏) là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Nguyên Bưu** (chữ Hán: 源彪, 521 – 586), tên tự là **Văn Tông**, người huyện Lạc Đô quận Tây Bình , quan viên nhà Đông Ngụy, nhà Bắc Chu cuối thời Nam bắc triều và
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Vu Cẩn** (chữ Hán: 于谨, 493 – 568), tự **Tư Kính**, tên lúc nhỏ là **Cự Di**, dân tộc Tiên Ti, người Lạc Dương, Hà Nam (nay là Lạc Dương, Hà Nam), tướng lĩnh nhà
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Nguyên Hạ** (407-479) là tướng nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Nguyên Hạ vốn có tên là **Thốc Phát Phá Khương**, tên Tiên Ti là **Hạ Đầu Bạt** hay **Giá
**Vũ Văn Hộ** (, 513–572), biểu tự **Tát Bảo** (薩保), được phong tước **Tấn Quốc công** (晉國公), là một tông thân, đại thần nhiếp chính của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
Trung Sơn Hiến Vũ vương **Thác Bạt Anh** (chữ Hán: 拓跋英, ? – 9 tháng 12 năm 510), còn gọi là **Nguyên Anh** (元英), tên tự là **Hổ Nhi**, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Tây Ngụy Cung Đế** (西魏恭帝) (537–557), tên húy là **Nguyên Khuếch** (元廓), sau đổi thành **Thác Bạt Khuếch** (拓拔廓), là hoàng đế cuối cùng của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực