✨Trương Tông Vũ

Trương Tông Vũ

Trương Tông Vũ (chữ Hán: 张宗禹, bính âm: Zhāng Zōng Yǔ), không rõ năm sinh năm mất, ước đoán được sinh ra vào khoảng cuối đời Gia Khánh – đầu đời Đạo Quang, nhà Thanh miệt xưng là Trương Tổng Ngu (张总愚, Zhāng Zǒng Yú), tên lúc nhỏ là Huy, xước hiệu Tiểu diêm vương, người Trương Đại Trang, Bạc Châu , thủ lĩnh quân Tây Niệp của giai đoạn sau phong trào khởi nghĩa Niệp quân phản kháng nhà Thanh, tự xưng Lương vương của Thái Bình Thiên Quốc.

Thời kỳ đầu của Niệp quân

Tham gia khởi nghĩa

Ông sinh ra trong một gia đình địa chủ, tài sản có hơn 4 ngàn mẫu ruộng vườn. Cha là Trương Phú Tân, chỉ muốn Tông Vũ đọc sách làm quan. Ông tuy thích đọc sách, nhưng không hứng thú với thi cử. Khi trưởng thành, Tông Vũ thường đi lại với thành viên Niệp đảng. Năm Hàm Phong thứ 5 (1855), vì chút bất đồng trong nhà, Tông Vũ bỏ đi theo chú họ là Trương Nhạc Hành (Trương Đại Trang cách quê nhà của Nhạc Hành là thôn Trương Lão Gia 8 dặm về phía tây nam), chính vào lúc Nhạc Hành đang chuẩn bị nổi dậy phản Thanh. Nhạc Hành vui vẻ giữ ông ở lại bên mình, cho giúp việc văn thư.

Năm sau (1856), Tông Vũ nắm cánh quân cờ vàng viền vàng, tức là vệ binh của Nhạc Hành, tham gia chiến đấu khắp Hoài Nam, Hoài Bắc.

Năm thứ 7 (1857), Nhạc Hành đánh chiếm Lục An, sai Tông Vũ đưa mấy cánh quân đi Ngũ Hà diệt trừ quan quân còn sót lại. Ông hỏi nếu tướng sĩ không tuân lệnh thì làm thế nào? Nhạc Hành đáp cứ giết đi! Dẹp xong Ngũ Hà, Tông Vũ thu quân. Phản tướng của nghĩa quân là Lý Chiêu Thọ soái quan quân đuổi theo, ông ra lệnh quay lại đánh trả, thân tín của chủ tướng quân cờ vàng viền chàm là Trương Văn không nghe, Tông Vũ bắt chém 18 người, ném đầu – thây xuống sông. Mọi người trông thấy thì run sợ, nhất nhất nghe lệnh. Ông đánh tan Chiêu Thọ rồi quay về, Trương Văn tố cáo với Nhạc Hành. Nhạc Hành hỏi, Tông Vũ nhắc lại lời dạy trước, Nhạc Hành cảm thán sánh ông với Diêm vương. Từ đây trong quân gọi Tông Vũ là Tiểu diêm vương.

Tháng giêng năm thứ 10 (1860) ÂL, Tông Vũ đưa 3 vạn quân Niệp ở Hoài Bắc đi tập kích Tô Bắc. Ngày 1 tháng 2 ÂL, nghĩa quân chiếm được Đào Nguyên ở phía nam Tứ Châu, đánh tan 300 quan quân của đô tư Đức Hưng, vượt sông Thanh Thuận, đến được Vương Gia Doanh, một trận đánh hạ trọng trấn Thanh Giang Phổ , bắt giết bọn Hoài Hải đạo viên Ngô Bảo Tấn, thông phán Thẩm Nho và phó tướng Thư Tường. Đây là thắng lợi đáng kể nhất của quân Niệp ở Hoài Bắc, ông được Thái Bình Thiên Quốc thụ phong tước Thạch Thiên Yến.

Thay thế Trương Nhạc Hành

Năm Đồng Trị đầu tiên (1862), Tông Vũ soái quân bản bộ - đang hoạt động ở tây bộ Hà Nam - tham gia cánh quân tây chinh của Thái Bình Thiên Quốc, do bộ tướng của Trần Ngọc Thành là Lại Văn Quang, Trần Đắc Tài chỉ huy. Họ đưa quân vào Thiểm Nam, dân Hồi nhao nhao hưởng ứng. Sau khi Ngọc Thành bị bắt, quân tây chinh quay lại Hà Nam để cứu chủ tướng. Ngọc Thành bị hại, ông đưa quân Niệp đông tiến, chiếm lĩnh Hiếu Cảm thuộc Hồ Bắc. Bị quan quân ngăn trở, Tông Vũ đưa quân quay về Bạc Châu hội họp với Nhạc Hành.

Năm thứ 2 (1863), Tăng Cách Lâm Thấm dồn quân vây đánh Trĩ Hà Tập, vì muốn phân tán chủ lực địch, Tông Vũ được điều đi Hà Nam, liên hiệp với Trần Đại Hỷ vu hồi tấn công. Chưa kịp trở về thì Trĩ Hà Tập thất thủ, Nhạc Hành bị hại. Ông soái quân quay về An Huy, tiến đánh các nơi Thái Hồ, Tiềm Sơn, Đồng Thành, vào khoảng tháng 6 ÂL chiếm lại Trĩ Hà Tập, hành hình các thủ lĩnh đã đầu hàng quan quân là Dương Thụy Anh, Vương Hoài Nghĩa. Quân Niệp ở các tập Tây Dương, Cao Lô, Thạch Cung Sơn, Nghĩa Môn tái khởi hưởng ứng, đi theo Tông Vũ, đốt phá kho lương của quan quân. Mùa thu, nghe tin Tăng Cách Lâm Thấm nam hạ, ông trở lại Hà Nam, cùng bọn Trần Đại Hỷ, Nhiệm Hóa Bang liên kết chống lại quan quân.

Thời kỳ sau của Niệp quân

Tổ chức Niệp quân mới

Mùa xuân năm thứ 3 (1864), quân Thái Bình ở tây bắc mưu tính giải vây cho Thiên Kinh, từ Thiểm Tây đông hạ. Hạ tuần tháng 3 ÂL, Tông Vũ hội quân với quân Thái Bình, tham gia giải vây. Kỵ binh Mông Cổ của Tăng Cách Lâm Thấm, quân Ngạc (Hồ Bắc) của Hồ Quảng tổng đốc Quan Văn, quân Dự (Hà Nam) của Hà Nam tuần phủ Trương Chi Vạn và quân Hoàn (An Huy) của An Huy tuần phủ Kiều Tùng Niên đón đánh nghĩa quân. Đôi bên đại chiến ở đông bộ Hồ Bắc, nghĩa quân thất bại, kế hoạch đông hạ không thành. Mùa hạ, Thiên Kinh thất thủ, ông cùng quân Thái Bình của bọn Lại Văn Quang, Mã Vĩnh Hòa hợp vây Ma Thành thuộc Hồ Bắc, bị bộ tướng của Tăng Cách Lâm Thấm là bọn Trần Quốc Thụy, Thành Đại Cát đánh bại, chia nhau chạy vào các nơi Túc Tùng, Vọng Giang, Tiềm Sơn, Thái Hồ thuộc An Huy. Tăng Cách Lâm Thấm từ Anh Sơn đuổi đến Đặng Châu thuộc tây bộ Hà Nam, Tông Vũ dùng toàn kỵ binh, di chuyển rất nhanh.

Các tướng lãnh Niệp quân cầm đầu là Tông Vũ đề cử Lại Văn Quang làm lãnh tụ, thống nhất chỉ huy Niệp quân và Thái Bình quân. Vào khoảng tháng 12 ÂL, hai lực lượng này được hợp nhất thành Tân Niệp quân ở tây bộ Hà Nam, tiếp tục dùng niên hiệu, phong hiệu của Thái Bình Thiên Quốc. Ông có phong hiệu mới là Lương vương (là tự phong hay được phong vẫn còn là chủ đề tranh cãi, nhưng khả năng lớn hơn là tự phong). Liền sau đó Tông Vũ liên tiếp đánh bại Tăng Cách Lâm Thấm ở Đặng Châu, ở Lỗ Sơn.

Đại thắng Cao Lâu Trại

Mùa xuân năm thứ 4 (1865), Tông Vũ chạy đi Úy Thị, Tăng Cách Lâm Thấm đuổi theo, ông lại theo hướng tây nam chạy đi Lâm Dĩnh, rẽ sang hướng đông đi Yển Thành, rồi nhắm hướng nam đi Tây Bình, Toại Bình, chuyển sang hướng đông đi Nhữ Ninh, chợt nam chợt bắc. Tháng 3 ÂL, nhằm dẫn dụ Tăng Cách Lâm Thấm, Tông Vũ đưa quân ra bắc, ngày đêm không nghỉ, từ Lý Bát Tập vượt Hoàng Hà, theo lối cũ vào Sơn Đông. Trong vài ngày, vượt các huyện Tào, Hà Trạch, Định Đào, Thành Vũ, Vận Thành, Cự Dã, Kim Hương, Tế Ninh, rong ruổi ngang dọc, đi lại nhanh chóng, áp sát tỉnh Trực Lệ. Tăng Cách Lâm Thấm bị triều đình chỉ trích thả giặc Niệp ra bắc, nóng ruột thúc quân đuổi theo suốt mấy chục ngày, người không rời yên, ngựa không dừng vó, binh sĩ kiệt sức mà chết đến vài trăm.

Hạ tuần tháng 3 ÂL, nghĩa quân tiến vào Hà Trạch thuộc Sơn Đông, Tông Vũ sắp đặt mai phục ở 3 mặt bắc, tây, đông của rừng liễu tại Gia Mật Trại, Tào Châu. Ngày 23 ÂL, ông sai một cánh quân nhỏ tiến đánh Giải Nguyên Tập, vờ thua dụ quan quân đuổi theo. Quan quân rơi vào ổ phục kích, thua chạy về Cao Lâu Trại. Tông Vũ soái quân đuổi đến, giao chiến đến chiều, đào hào làm trại. Hôm sau nghĩa quân diệt sạch quan quân, giết được chủ tướng Tăng Cách Lâm Thấm cùng các quan viên văn võ Nội các học sĩ Toàn Thuận, tổng binh Hà Kiến Ngao, Ngạch Nhĩ Kinh Ách. Đây chính là thắng lợi lớn nhất của Niệp quân, triều đình cả sợ, điều gấp Tăng Quốc Phiên làm khâm sai đại thần, mệnh cho ông ta soái lĩnh quân Tương, Hoài ra bắc.

Lãnh đạo Tây Niệp quân

Sau đại thắng, Tông Vũ đưa quân từ khu vực lầy lội thuộc Sơn Đông nam hạ, đi qua giao giới Giang Tô – Hà Nam mà đến được bắc bộ An Huy. Khoảng tháng 5 ÂL, ông cùng Lại Văn Quang đưa quân tiến vào nội địa huyện mới đặt là Qua Dương, đánh chiếm Long Sơn, ở Bắc Đài Tử cùng quan quân đại chiến. Anh Hàn cùng bọn Đạo viên Nhiệm Lan Sanh, Sử Niệm Tổ soái 17 doanh chống lại nghĩa quân suốt 3 giờ, mất hơn 2000 người, phải lui về thành đất mới đắp Qua Dương. Nghĩa quân trùng trùng bao vây, vào ngày 24 ÂL đánh chiếm Cao Lô Tập, cắt đứt đường vận lương của địch, rồi tấn công Trĩ Hà Tập. Anh Hàn trong đêm chạy đi Tây Dương Tập, cầu viện quân Tương, Hoài. Ngày 29 ÂL, quân Hoài của Lưu Minh Truyện, Chu Thịnh Ba cùng quân Hà Nam của Trương Diệu, Tống Khánh và quân An Huy của Anh Hàn, Trương Đắc Thắng về cứu Qua Dương. Ngày 3 tháng 6 ÂL, ông cởi vây chạy theo hướng tây, vượt qua Hà Nam đến được Tảo Dương, Tương Dương thuộc Hồ Bắc, rồi rẽ về Hà Nam.

Tháng 9 năm thứ 5 (1866) ÂL, Niệp quân tại Hứa Châu thuộc Hà Nam do bất đồng chiến lược, chính thức chia 2 ngả: bọn Tuân vương Lại Văn Quang, Lỗ vương Nhiệm Hóa Bang theo hướng đông bắc, nên gọi là Đông Niệp quân, bọn Lương vương Trương Tông Vũ, Ấu Ốc vương Trương Vũ Tước (con trai Trương Mẫn Hành – anh trai Nhạc Hành) theo hướng tây vào Thiểm Tây, nên gọi là Tây Niệp quân. Ông soái hơn 5 vạn người vượt qua Hoa Châu, Vị Nam, áp sát Tây An. Tháng 12 ÂL, nghĩa quân tiêu diệt 30 doanh quân Tương của Thiểm Tây tuần phủ Lưu Dung, giết bọn Tương quân đề đốc, Hán Trung trấn tổng binh Tiêu Đức Dương và Ký danh đề đốc Dương Đắc Thắng, Tiêu Tập Sơn, Tiêu Trường Thanh ở Thập Tự Pha thuộc Bá Kiều, phía đông Tây An, thừa thắng vây Tây An. Triều đình gấp mệnh cho Tả Tông Đường làm Đốc biện Thiểm Cam quân vụ, bọn Lưu Tùng Sơn, Lý Tường Hòa, Trương Tích Vinh nhận lệnh đưa quân Tương, Hoài đến cứu, nghĩa quân cởi vây, dời đi các nơi Hàm Dương, Đồng Châu, Lễ Tuyền, Tam Nguyên, Kính Dương.

Tháng 2 năm thứ 6 (1867) ÂL, Tây Niệp quân men bờ nam sông Vị tây tiến, đến được Vị Bắc, phối hợp với nghĩa quân người Hồi ở Thiểm Tây, gây nhiều khó khăn cho Tả Tông Đường. Bọn họ chuyển sang Thiểm Bắc, liên tiếp chiếm được An Tắc, Thiên Xuyên, Tuy Đức. Tháng 11 ÂL, Tông Vũ phá Đức Châu, nhận tin cáo cấp của Nhiệm Trụ thuộc Đông Niệp quân, lên đường đi cứu, ngày đêm không nghỉ. Ông theo lời của các bậc phụ lão, dùng kế vây Ngụy cứu Triệu, nhân lúc quân Tương, Hoài tập trung ở Sơn Đông, Trực Lệ trống rỗng, nhắm thẳng vào kinh kỳ, bức quan quân lui về. Tông Vũ soái nghĩa quân từ Duyên An đến Duyên Trường, dò biết mặt sông Hoàng Hà ở Long Vương Trường đang kết, nhưng quan quân ở bờ đông phòng thủ rất nghiêm, bèn mệnh cho Trương Trác (con trai thứ năm của Trương Mẫn Hành) đưa 500 người mang đoản đao, nhân đêm vượt sông, nhổ hết chông chà, đốt sạch doanh lũy. Ông tự nổi trống, thúc quân sang sông, phá Cát Châu , cướp Bình Dương , ra Hoành Lĩnh Quan, đi Trạch Châu – Lộ Châu . Nhằm tránh quan quân ở Sơn Tây, nghĩa quân bỏ qua các nơi Khúc Ốc, Viên Khúc, đi vòng núi Vương Ốc, tiến vào bắc bộ Hà Nam; tiếp tục bỏ qua Tế Nguyên, Hoài Khánh, Tân Hương tiến vào nam bộ Hà Bắc, rồi nhằm hướng bắc mà đi, từ Thúc Lộc vượt sông Hô Đà nhằm cắt đuôi truy binh.

Hai lần uy hiếp Bắc Kinh

Tháng giêng năm thứ 7 (1868) ÂL, Tông Vũ bắc tiến đến Định Châu, chuyển vào Nam Bì, đánh vỗ mặt Thiên Tân. Bắc Kinh chấn động, triều đình hạ chiếu giới nghiêm, gọi quan các tỉnh Tương (Hồ Nam), Sở (Hồ Bắc), Lỗ (Sơn Đông), Dự (Hà Nam), Trực (Trực Lệ), Hoàn (An Huy), Cát (Cát Lâm) về cứu. Ông đến Lư Câu Kiều thì gặp sương mù, muốn đợi sương tan thì quan quân đã ập đến. Lúc này, Tông Vũ biết rõ Đông Niệp quân đã bị tiêu diệt, Tây Niệp quân rơi vào nguy cơ bị bao vây 4 mặt. Tháng 3, nghĩa quân tổn thất 2 viên đại tướng là Hoài vương Khâu Viễn Tài và Ấu Ốc vương Trương Vũ Tước (có thuyết là tháng 6).

Hạ tuần tháng 4, Tông Vũ vượt qua Đức Châu, Thương Châu, lần nữa nhằm vào Thiên Tân. Cung thân vương Dịch Hân mệnh cho Tam Khẩu thông thương đại thần Sùng Hậu đưa đội thuyền buôn đi biển tăng cường phòng vệ; Tuy Viễn tướng quân Định An, phó đô thống Phú Hòa, đề đốc Trịnh Khôi Sĩ đều quay về cứu viện; thị lang Ân Thừa, phó đô thống Ngọc Lượng đưa quân bố phòng tại Vũ Thanh , còn sai Sùng Hậu nhờ thuyền buôn Anh, Pháp hiệp đồng bảo vệ Thiên Tân. Niệp quân ở các nơi Độc Lưu Trấn, Dương Liễu Trấn cướp thuyền vượt Vận Hà, nhưng gặp phải trận địa đại pháo dày đặc của đội thuyền đi biển, hết cách tiến lên, vào cuối tháng 4 đành phải nam hạ Sơn Đông.

Kết cục không rõ ràng

Tháng 5, Tông Vũ đón đánh bọn Lưu Tùng Sơn, Trần Quốc Thụy, Trương Diệu, Tống Khánh ở Bạch Kiều, Tân Châu , thất bại; tái chiến ở Hải Phong , lại thất bại. Chạy đến Ngô Kiều, gặp phục binh của Chu Thịnh Ba, thua thêm lần nữa, cháu trai Trương Nhị Bưu và nhiều tướng lĩnh cờ vàng tử trận. Tháng 6, quân Hà Nam của Trương Diệu, Tống Khánh hội họp với các lộ quan quân, quay về đánh Niệp quân tại khoảng giữa Hoàng Hà và sông Đồ Hãi ở đông bắc Tế Dương, Tông Vũ đại bại, mất gần sạch chủ lực. Ông luẩn quẩn ở Yên Gia Độ, muốn vượt Hoàng Hà, nhưng nước sông dâng cao, rót vào Vận Hà thêm 3 thước, thủy quân triều đình đưa thuyền chở pháo đến tập kích dữ dội. Khâm sai đại thần Lý Hồng Chương áp dụng rất hiệu quả những biện pháp nhằm cắt đứt nguồn tiếp tế từ nhân dân, gây ra vô vàn khó khăn cho nghĩa quân; lại thêm trời mưa cả tháng, ngựa của Niệp quân không nhấc nổi chân. Nghĩa quân rơi vào cảnh khốn quẫn, mãnh tướng Trương Trác trên lưng ngựa vươn mình hái lê, bị đạn bắn băm bổ, nói dối là bệnh đậu mùa để yên lòng quân, không lâu sau thì chết.

Ngày 28 ÂL (tức ngày 18/6), Tây Niệp quân đánh trận cuối cùng ở phía nam trấn Trì Bình, huyện Trì Bình, Sơn Đông. Em trai Tông Vũ là Tông Đạo, Tông Tiên, con trai Trương Quỳ Nhi, cháu trai Trương Chấn Giang cùng bọn tướng lãnh Trình Đại Lão Khảm tử trận, nhưng Tông Vũ và Trương Ái (con trai thứ tư của Trương Mẫn Hành) thì mất tích. Ở bờ sông chỉ tìm được roi ngựa của Trương Ái.

Lý Hồng Chương dâng tấu chương nói rằng Tông Vũ chết đuối, bị Tả Tông Đường chỉ trích là không có bằng chứng. Thanh sử cảo thừa nhận không rõ kết cục của Trương Tông Vũ. Bởi không có sử liệu đáng tin cậy nào khác, nên từ điển Từ hải, Giang Thế Vinh – Niệp quân sử liệu tùng san, Trung Quốc cận đại sử tư liệu tùng san, Trung Quốc lịch đại thông sử diễn nghĩa - Thanh sử diễn nghĩa, Trung Quốc lịch đại nhân danh đại từ điển đều ghi chép tương tự.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trương Tông Vũ** (chữ Hán: 张宗禹, bính âm: Zhāng Zōng Yǔ), không rõ năm sinh năm mất, ước đoán được sinh ra vào khoảng cuối đời Gia Khánh – đầu đời Đạo Quang, nhà Thanh
**Bộ trưởng Nội vụ Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Secretary of the Interior_) là người đứng đầu Bộ Nội vụ Hoa Kỳ. Không nên nhầm lẫn Bộ Nội vụ Hoa Kỳ với khái niệm
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Trương Trọng Vũ** (張仲武, ? - 849), thụy hiệu **Lan Lăng Trang vương** (蘭陵莊王) (theo _Cựu Đường thư_) hay **Lan Lăng Trang công** (蘭陵莊公) (theo _Tân Đường thư_), là tướng dưới thời nhà Đường trong
**Tống Vũ Kỳ** (Phồn thể: 宋雨琦, Giản thể: 宋雨琦, Bính âm: _Sòng Yŭqí_, Hangul: 송우기, Romaja: _Song Woo-gi_, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1999), còn được biết đến với nghệ danh **Yuqi**, là một
**Tống Vũ công** (chữ Hán: 宋武公; trị vì: 765 TCN-748 TCN), tên thật là **Tử Tư Không** (子司空), là vị vua thứ 12 của nước Tống – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
hay tên gọi khác là **Bộ trưởng Tổng hợp**, là thành viên của Nội các Nhật Bản chuyên phụ trách bên Bộ Nội vụ và Truyền thông. ## Danh sách Bộ trưởng * Tên **in
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Vũ Thuật** (tên thật là **Vũ Xuân Thuật**, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1955) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng giữ chức
**Vũ Thanh Bình** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông là nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an (Việt Nam). ## Tiểu sử Năm 2006, ông mang
**Bộ trưởng** (tiếng Anh: Minister) là một chính trị gia, giữ một công vụ quan trọng trong chính quyền cấp quốc gia, xây dựng và triển khai các quyết định về chính sách một cách
nhỏ|Trương Tông Xương **Trương Tôn Xương** (giản thể: 张宗昌; phồn thể: 張宗昌; bính âm: Zhāng Zōngchāng; Wade–Giles: Chang Tsung-ch'ang) (1881 – 1932), có biệt danh "Cẩu nhục tướng quân" và "Trương 72 khẩu pháo" (chữ
**Vũ Đỗ Anh Dũng** (sinh ngày 30 tháng 4 năm 1961) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông, Bộ Công an (Việt Nam)
**Ban Tổng vụ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô** (), là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Ban được thành lập vào năm 1920 với tên
**Nguyễn Chí Thành** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Công an nhân dân Việt Nam. ## Sự nghiệp Ngày 4/6/2008, Thủ tướng
**Vũ Chính** (12 tháng 11 năm 1928 – 3 tháng 1 năm 2022) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Phan Văn Anh Vũ** (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1975), biệt danh **Vũ nhôm**, là một doanh nhân Việt Nam. Ông sống tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, được xem là _trùm_
**Tổng thống Đức**, chính thức là **Tổng thống liên bang Cộng hòa Liên bang Đức** (), là nguyên thủ quốc gia của Đức. Theo thiết chế trong chính trị Đức, đây là vị trí chủ
**Trần Lương Vũ** (sinh 24 tháng 10 năm 1946) là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Thành ủy Thượng Hải kiêm Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố
**Vũ** hay **Võ** (武) là một họ phổ biến tại Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên và Hàn Quốc. Số lượng người mang họ Vũ phổ biến đứng thứ 7 với 3,9% dân số tại
**Tổng thống Áo** () là nguyên thủ quốc gia của Áo. Chức vụ tổng thống được Quốc hội lập hiến Áo thành lập vào năm 1920 sau khi Đế quốc Áo-Hung và chế độ quân
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh** (_Ho Chi Minh University of Banking_) là trường đại học công lập trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trường được thành lập năm
**Trưởng Tôn Vô Kị** (chữ Hán: 長孫無忌; 594 - 659), biểu tự **Phù Cơ** (辅机), là đại công thần trong triều đại nhà Đường trải qua ba đời Hoàng đế nhà Đường, từ Đường Cao
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
**Tổng thống** **Cộng hòa Liban** () là nguyên thủ quốc gia của Liban. Tổng thống do Nghị viện bầu ra. Nhiệm kỳ của tổng thống là sáu năm và tổng thống không được giữ chức
Một loạt các vụ nổ súng và các vụ nổ kinh hoàng đã xảy ra tại các quận 10 và 11 của thủ đô Paris, Pháp, tại sân vận động Stade de France ở Saint-Denis,
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Trương Hòa Bình** (bí danh: **Sáu Đạt**, sinh ngày 13 tháng 4 năm 1955) là một chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Phó Thủ
**Tổng cục Tình báo Quốc phòng**, gọi tắt là **Tổng cục Tình báo** hoặc** Tổng cục II**, là cơ quan tình báo chiến lược của Đảng, Nhà nước, cơ quan tình báo chuyên ngành quân
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Vụ án Năm Cam và đồng phạm** hay **Chuyên án Z5.01** là vụ án về tội phạm có tổ chức đặc biệt, có tính đặc thù, đây là một vụ án lớn và phức tạp,
**Vụ Trịnh Xuân Thanh trở về Việt Nam** là một câu chuyện có 2 phiên bản khác nhau. Chính vì 2 phiên bản trái ngược đưa đến một cuộc khủng hoảng quan hệ ngoại giao
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
**Tổng cục Thuế vụ Quốc gia** (**STA**, Tiếng Trung: 国家税务总局) là một cơ quan ngang Bộ trong Chính phủ Trung Quốc. Nó chịu sự chỉ đạo của Quốc vụ viện, chịu trách công tác thuế
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
**Tổng cục Hậu cần** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập vào ngày 11 tháng 7 năm 1950 là cơ quan đầu ngành Hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có
**Trương** (giản thể: 张 ; phồn thể: 張) là một họ của người Việt Nam. Họ Trương cũng có tại Trung Quốc (Zhang), Triều Tiên / Hàn Quốc (Jang), Đài Loan (Chang), và Singapore (Chong).
**Tổng cục An ninh** là một cơ quan cũ trực thuộc Bộ Công an Việt Nam có nhiệm vụ điều hành công tác An ninh, hiện nay không còn hoạt động. ## Lược sử *
Ngày 11 tháng 3 năm 2025, cựu Tổng thống thứ 16 của Philippines Rodrigo Duterte đã bị Cảnh sát Quốc gia Philippines và Interpol bắt giữ trong chiến dịch **Operation Pursuit** Ông bị bắt tại
Phan Văn Anh Vũ, cựu Thượng tá Công an, doanh nhân bất động sản, bị cáo buộc với sự giới thiệu của Bộ Công an được UBND TP Đà Nẵng bán nhà đất công sản
Vào chiều ngày 4 tháng 8 năm 2020, hai vụ nổ xảy ra tại bến cảng của thành phố Beirut, thủ đô nước Cộng hòa Liban. Vụ nổ thứ hai rất mạnh đã khiến ít
**Trường Trung học Phổ thông Ngô Quyền** hay **Trường Bonnal**, trường **Bình Chuẩn** là một ngôi trường nằm trong hệ thống các trường Trung học Phổ thông công lập của Việt Nam được thành lập
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
**Vũ Lăng.** (4 tháng 8 năm 1921 - 23 tháng 10 năm 1988) tên thật là Đỗ Đức Liêm, một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng, Anh
**Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Secretary of State_) hay **Ngoại trưởng Mỹ** là người lãnh đạo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, quản lý về vấn đề đối ngoại. Bộ trưởng
**Trường Đại học Sao Đỏ** (tên tiếng Anh: Red Star University) là trường Đại học công lập được thành lập năm 2010 trên cơ sở nâng cấp Trường Cao đẳng Công nghiệp Sao Đỏ, có
**Bộ trưởng Bộ Công an nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** gọi tắt là **Bộ trưởng Bộ Công an**, là thành viên chính phủ Việt Nam đứng đầu Bộ Công an. Bộ
**Danh sách các vụ vi phạm về môi trường Việt Nam 2016** ghi lại những vụ vi phạm về môi trường ở Việt Nam được báo chí đưa tin trong năm 2016. Dẫn chứng từ