Nguyên Chẩn (chữ Hán: 元稹, 779 - 831), biểu tự Vi Chi (微之), là nhà thơ, nhà văn và nhà chính trị nổi tiếng của Trung Quốc thời Trung Đường. Ông nổi tiếng cùng Bạch Cư Dị đề xướng Tân Nhạc phủ vận động (新樂府運動) và thường được gộp cùng với Bạch Cư Dị, gọi là Nguyên Bạch (元白).
Ông có nhiều bài thơ và truyện kí, nổi tiếng nhất là Oanh Oanh truyện (鶯鶯傳), một tác phẩm truyện mà về sau trở thành đề tài được chuyển thể rộng rãi qua Kinh kịch và các thể loại nhạc kịch.
Tiểu sử
Nguyên Chẩn là người Lạc Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Ông xuất thân từ hoàng tộc Bắc Ngụy, là hậu duệ của Bành Thành vương Thác Bạt Lực Chân, con trai thứ 8 của Thác Bạt Thập Dực Kiền. Ông tổ 6 đời của ông là Nguyên Nham (元岩), làm Binh bộ Thượng thư, Ích châu Tổng quản trưởng sự thời nhà Tùy, tước Bình Xương quận công (平昌郡公). Cha ông là Nguyên Khoan (元宽), làm chức Lang trung Bỉ bộ, Trưởng sử cho Thư vương. Mẹ ông là Trịnh thị, xuất thân từ gia tộc danh giá Huỳnh Dương Trịnh thị (荥阳郑氏), con gái của Thứ sử Mục Châu là Trịnh Tể (郑济), cháu gái 10 đời của Trung thư lệnh Trịnh Hi (郑羲) thời Bắc Ngụy.
Khi Nguyên Chẩn lên 7 tuổi thì cha ông mất. Cha mất sớm, nhà nghèo, ông theo mẹ về nhà họ Trịnh để nương nhờ. Tân Đường thư cho biết ông không đến trường, mà do người mẹ có học thức đích thân dạy dỗ, từ viết đến đọc. Ông vốn thông minh, nên năm 9 tuổi đã biết viết văn, đến 15 tuổi, ông thi đỗ khoa Minh kinh, được bổ chức Hiệu thư lang. Sau đó, ông đỗ chế khoa, được giữ chức Hữu thập di.
Làm quan tại triều, ông thường đấu tranh với các thế lực đang làm lũng đoạn triều chính, trong đó có phe hoạn quan. Nhưng cuối cùng, việc làm này thất bại, ông bị giáng chức làm Sĩ tào tham quân ở Giang Lăng, rồi làm Tư mã ở Thông Châu. Sau, nhờ có các hoạn quan như Thôi Đàm Tuấn, Thôi Hoàng Giản giúp đỡ, ông thỏa hiệp được với các thế lực trên, không kiên trì đấu tranh được như bạn thân ông là Bạch Cư Dị.
Năm 822, đời Đường Mục Tông, sau khi nắm giữ một vài chức vụ tại triều, Nguyên Chẩn được cử lên làm Tể tướng cùng với Bùi Độ. Vì ghen công với Bùi Độ, ông cùng Thôi Hoàng Giản mưu phá. Bùi Độ biết được tâu việc lên Hoàng đế, và ông bị đưa đi làm Thứ sử ở Đồng Châu, rồi làm Thứ sử ở Việt Châu, kiêm Quan sát sứ ở Chiết Đông. Đến đời Đường Văn Tông, ông được đổi làm Tiết độ sứ ở Vũ Xương (nay là thủ phủ tỉnh Hồ Bắc).
Năm 831, Nguyên Chẩn mất tại chức lúc 52 tuổi.
Sự nghiệp văn chương
Nguyên Chẩn và Bạch Cư Dị là đôi bạn thân thiết: là bạn thơ và là bạn đồng triều, rồi vì cùng đấu tranh chính trị trong nội bộ mà cùng bị biếm. Đối với thi đàn lúc bấy giờ, hai ông đã tích cực đề xướng phong trào Tân nhạc phủ. Bài tựa "Nhạc phủ đề cổ" của Nguyên Chẩn, và "Ký Nguyên Chẩn thư" (Thư gửi Nguyên Chẩn) của Bạch Cư Dị có thể xem là những tuyên ngôn của khuynh hướng sáng tác hiện thực trong thơ ca Trung Quốc vào đầu thế kỷ 9. Đề tài mà ông thường viết là tình yêu, là sự tiếc thương cho người đã khuất. Đây là sở trường của ông, do ông giàu từ ngữ và tinh tế khi tả , nổi bật có bài "Xuân hiểu" (Sáng xuân), "Khiển bi hoài" (Giải nỗi sầu nhớ, gồm 3 bài),...
Song bộ phận có giá trị nhất của Nguyên Chẩn lại là thơ phúng dụ. Thơ phúng dụ phần lớn viết theo thể cổ phong và nhạc phủ, cũng dùng những đề tài giống như Bạch Cư Dị, để nói lên tâm tình bất mãn của tác giả đối với tình hình chính trị (trong đó có việc ông phê phán chủ trương gây chiến), đồng thời ít nhiều phản ánh cuộc cuộc sống của người dân đương thời. Đáng chú ý các bài: "Thái châu hành" (Bài hành lặn xuống lấy hạt châu), "Tróc bổ hành" (Bài ca lùng bắt), "Chức phụ từ" (Bài ca gái dệt), "Điền gia từ" (Lời người làm ruộng), "Viễn chinh phu" (Chồng đi viễn chinh), v.v...
Song nhìn chung, diện phản ánh ở thơ phúng dụ của Nguyên Chẩn không rộng bằng ở Bạch Cư Dị, và mức độ phê phán cũng không mạnh bằng. Mặc dù vậy, chủ trương văn học và thực tiễn sàng tác của Nguyên Chẩn đã có ảnh hưởng khá nhiều đối với các nhà thơ hiện thực đương thời và đời sau .
Khen ngợi ông và Bạch Cư Dị, danh sĩ Hoàng Thao thời Vãn Đường viết:
:"Đời Đường, trước thì có Lý Bạch, Đỗ Phủ; sau thì có Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị, thật đúng như biển cả mênh mông, như Hoa Nhạc (tức núi Hoa Sơn ở Thiểm Tây) ngất trời".
Đến đời Thanh, danh sĩ Triệu Dực lại viết:
:" Nguyên Chẩn và Bạch Cư Dị thích bình thường, giản dị...(làm thơ) phần nhiều gặp cảnh sinh tình, nhân việc nảy ý, cảnh trước mắt, lời nói cửa miệng, tự nhiên có thể đi sâu vào lòng người, ai cũng nghiền ngẫm, ngâm nga" .
Giới thiệu thơ
Tác phẩm Nguyên Chẩn để lại có:
*Nguyên thị Trường Khánh tập* (Tập thơ của Trường Khánh họ Nguyên), gồm 60 quyển.
Hội chân ký (Ghi chuyện gặp gỡ chân tình), còn gọi là Oanh Oanh truyện**: Đây là truyện ngắn tả mối tình giữa Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy, đặt nền móng cho sự ra đời vở tạp kịch Tây sương ký (Truyện ký mái Tây) nổi tiếng.
Ngoài ra, những lời bàn luận về thế sự của ông và Bạch Cư Dị, còn được tập hợp trong 75 thiên Sách lâm (Rừng sách).
Giới thiệu ba trong số bài thơ tiêu biểu của Nguyên Chẩn.
Sách tham khảo
Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn, Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II), Bản dịch do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành năm 1993.
Dịch Quân Tả, Văn học sử Trung Quốc (Tập I). GS. Huỳnh Minh Đức dịch từ tiếng Trung Quốc. Nhà xuất bản Trẻ, 1992.
Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung Quốc (trọn bộ). Nhà xuất bản Trẻ, 1997.
Lê Đức Niệm, mục từ "Nguyên Chẩn" in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Trần Trọng San, Thơ Đường. Tủ sách Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.
Nhiều người dịch, Thơ Đường (Tập I). Nhà xuất bản Văn học, 1987.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Chấn Chi** là thiêm đô ngự sử thời Lê sơ, đỗ hoàng giáp năm 1518. ## Thân thế Nguyễn Chấn Chi là người Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (Hưng Yên). ## Sự nghiệp Ông
**Nguyên Chẩn** (chữ Hán: 元稹, 779 - 831), biểu tự **Vi Chi** (微之), là nhà thơ, nhà văn và nhà chính trị nổi tiếng của Trung Quốc thời Trung Đường. Ông nổi tiếng cùng Bạch
**Nguyễn Chấn** (1914–1985) là nhà cách mạng và chính khách Việt Nam, từng đảm nhiệm vai trò Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, Cục trưởng Cục Đường bộ thuộc Bộ Giao thông Công chính, tham
**Nguyễn Chấn** (1924-?) là nhà cách mạng, nhà nghiên cứu và chính khách Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Điện và Than Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Hóa chất, Đại biểu
**Phạm Nguyên Chấn** (1482 - ?) là thiêm đô ngự sử thời Lê sơ, đỗ hoàng giáp năm 1499. ## Thân thế Phạm Nguyên Chấn là người Hải Triều, huyện Ngự Thiên (Thái Bình), hay
**Nguyễn Chấn Á** (chữ Hán: 阮振亞; 1922 - 1998) là người Việt gốc Hoa, gốc Cam Túc. Gia tộc đã mấy đời định cư ở Chợ Lớn. Ông nguyên là Thiếu tướng của Quân đội
**Nguyễn Nguyên Chẩn** (chữ Hán: 阮原稹, 1425-?), người xã Lạc Thực, huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất
**Nguyễn Chấn** (sinh 1931), nguyên là một tướng lĩnh trong ngành Công binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa Sĩ quan Trừ bị đầu tiên
**Nguyễn Chân** (1929–2021) là một kỹ sư mỏ và chính khách Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IV, VII. ## Thân
**Nguyên Chấn Hiệp** (; , _Yuan Zhen-xia_) là một bộ phim truyền hình ngắn tập đa thể loại của Hồng Kông do Mai Tiểu Thanh sản xuất năm 1993 và được trình chiếu trên đài
thumb|alt=Cân thăng bằng trống|Hai đĩa cân thăng bằng này chứa không đồ vật, chia ra làm hai nhóm bằng nhau. Không là số chẵn. Nói theo cách khác, _tính chẵn lẻ_ của nó—đặc tính của
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
thumb|Dây cầu nguyện đen trong môn phái [[Chính thống giáo Đông phương]] thumb|left|Dây cầu nguyện đa dạng màu sắc **Dây cầu nguyện** ( - _komboskini_; - _chotki_ (most common term) or - _vervitsa_ (literal translation);
nhỏ|[[Biểu đồ Venn cho thấy hợp của _A_ và _B_]] Trong tổ hợp, một nhánh của toán học, **nguyên lý bao hàm-loại trừ** (hay **nguyên lý bao hàm và loại trừ** hoặc **nguyên lý bù
nhỏ| Hàm [[sin và tất cả các đa thức Taylor của nó đều là các hàm lẻ. Hình ảnh này cho thấy và các xấp xỉ Taylor của nó, các đa thức bậc 1,
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
Số nguyên tố _p_ được gọi là **số nguyên tố Chen (Trần)** nếu _p_ + 2 cũng là số nguyên tố hoặc là tích của hai số nguyên tố. Vào năm 1966, Trần Cảnh Nhuận (_Chen Jingrun_)
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
**Đặng Văn Chân** (鄧文真) hay **Đặng Văn Trấn**, một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn. ## Tên gọi Đặng Văn Chân được ghi trong sử sách với nhiều tên gọi khác nhau.
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Chán ăn tâm thần** (tiếng Anh: _anorexia nervosa_), hay **chán ăn tâm lý**, **biếng ăn tâm lý**, là một dạng của bệnh rối loạn ăn uống, có các triệu chứng như trọng lượng cơ thể
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Nguyễn Hoằng Dụ** (阮弘裕, ? - 1518) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung), Thanh Hóa, Việt Nam. ## Tiểu sử
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Nguyễn Cảnh Chân** (chữ Hán: 阮景真; 1355 - 1409) là danh tướng chống quân Minh thời Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông có nguồn gốc từ Đông Triều, Quảng Ninh trước khi về
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**[https://lvt.edu.vn/nguyen-lan-dung/ Nguyễn Lân Dũng]**, sinh năm 1938 là một giáo sư tiến sĩ sinh học, Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam. Công tác chính của ông là giảng dạy và nghiên cứu tại Viện
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Cư Trinh** (chữ Hán: _阮居貞_, 1716-1767), tên thật là Nguyễn Đăng Nghi, húy là Thịnh, tự là Cư Trinh, hiệu là Đạm Am, Đường Qua và Hạo Nhiên. Ông là danh tướng, danh sĩ
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Tuấn Anh** (sinh ngày 16 tháng 5 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam đang thi đấu cho Thép Xanh Nam Định và đội tuyển quốc gia Việt
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Bá Thanh** (8 tháng 4 năm 1953 – 13 tháng 2 năm 2015) nguyên là Chủ tịch Ủy ban nhân dân (1997–2003), Bí thư Thành ủy Đà Nẵng (2003–2013) kiêm Chủ tịch Hội đồng
**Nguyên Thành Tông** (tiếng Hán: 元成宗) hay **Hoàn Trạch Đốc Khả hãn** (; tiếng Hán: 完澤篤可汗)(1265- 1307) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên. Ông làm hoàng đế Trung Hoa từ năm 1294
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyên Tái** (chữ Hán: 元載) (? - 10 tháng 5, 777), tự là **Công Phụ** (公輔), thụy hiệu **Hứa Xương Hoang tử** (許昌荒子) sau cải thành **Hứa Xương Thành Tổng tử** (許昌成縱子), là viên quan
**Nguyễn Hữu Hào** (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm _Song Tinh bất dạ_ và một