✨Tân La Văn Thánh vương

Tân La Văn Thánh vương

Văn Thánh Vương (mất 857, trị vì 839–857) là quốc vương thứ 46 của Tân La. Ông là con trai cả của Thần Vũ Vương và Định Tông thái hậu Jeonggye. Ông có tên húy là Kim Khánh Ưng (金慶膺, 김경응).

Biết bệnh nặng không qua khỏi, vua Tân La Hưng Đức Vương bí mật gọi Trương Bảo Cao tại Thanh Hải về và trao ấn tín hoàng đế Tân La, dặn rằng sau hội nghị Hòa Bạch, ai được bầu lên ngôi vua thì đưa ấn tín hoàng đế Tân La cho người đó, tránh việc tranh đoạt đổ máu. Trương Bảo Cao nhận mệnh và về Thanh Hải. Không lâu sau, vua Tân La Hưng Đức Vương qua đời mà không có con kế vị. Vua Tân La Hưng Đức Vương được chôn cất tại Angang-hyeon, nay là Angang-eup, Gyeongju, Gyeongsang Nam. Trương Bảo Cao vì sợ ngọc tỷ bị cướp nên không đến Kim Thành dự tang lễ của vua mà ở Thanh Hải lập bài vị của vua và cho dân chúng cúng bái.

Kim Quân Trinh đang làm tể tướng nên đương nhiên sẽ được kế vị ngôi vua Tân La. Kim Đễ Long (cháu trai của vua Tân La Hưng Đức Vương) biết Kim Minh còn sống thì liền triệu tập các quý tộc để tính chuyện chống lại cha con Kim Quân Trinh và Kim Hựu Trưng. Từ đây Kim Đễ Long cùng thúc phụ (em họ của vua Tân La Hưng Đức Vương) là Kim Quân Trinh (Kim Gyunjeong) tranh giành quyền lực. Sau đó, Kim Hựu Trưng cố gắng thuyết phục Kim Đễ Long và phe cánh của ông ấy ủng hộ cha ông là Tể tướng Kim Quân Trinh lên ngôi. Kết quả tại Hội nghị Hoà Bạch), nhờ ông ấy xin vua Đường Văn Tông ban lệnh cấm thương thuyền nhà Đường đến Thanh Hải trấn của Tân La (đời vua Tân La Hi Khang Vương), để cô lập hoàn toàn Trương Bảo Cao, đồng thời xin triều đình nhà Đường ủng hộ Kim Minh làm vua Tân La thay cho vua Tân La Hi Khang Vương đương vị. Đổi lại Jami phu nhân hứa sẽ cắt đất Hán Châu (Hanju) và Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) của Tân La cho Thiên Thượng Quý.

Lúc này vua Tân La Hi Khang Vương ở kinh đô Kim Thành đã bị quân đội của Thượng đại đẳng Kim Minh bao vây hoàng cung thì sợ hãi. Vua Tân La Hi Khang Vương sai sứ đến Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) nhằm xin Trương Bảo Cao ra quân giúp đỡ nhưng Trương Bảo Cao đã đi Dương Châu nhà Đường. Các tướng của Trương Bảo Cao là Thôi Võ Xương, Trịnh Niên không quyết định được khi Trương Bảo Cao đi vắng. Kim Dương đốc thúc Kim Hựu Trưng nên tự đứng ra thống lĩnh 1 vạn quân ở Thanh Hải đi đánh kinh đô Kim Thành nhưng Kim Hựu Trưng do dự không quyết.

Tháng 12 năm 838 ở kinh đô Kim Thành của Tân La, Thượng đại đẳng Kim Minh biết tin vua Tân La Hi Khang Vương từng sai sứ đến Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) xin Trương Bảo Cao ra quân giúp đỡ thì nổi giận. Kim Minh kéo quân đánh vào hoàng cung, giết chết một vài phụ tá của vua và buộc vua Tân La Hi Khang Vương uống thuốc độc tự sát. Vua Tân La Hi Khang Vương được chôn tại núi Sosan ở kinh đô Kim Thành (Khánh Châu - Gyeongju). Kim Minh tự lập làm vua của Tân La, tức là vua Tân La Mẫn Ai vương.

Khi đó Kim Hựu Trưng sau bao lần chần chừ chưa quyết thì nay mới quyết định mang quân của Thanh Hải đánh vào hoàng cung Kim Thành cứu vua Tân La Hi Khang Vương. Tuy nhiên tin tức vua Tân La Hi Khang Vương đã tự sát ở kinh đô Kim Thành khiến Kim Hựu Trưng hối hận về sự chần chừ trễ nải của mình.

Trương Bảo Cao và Yeom Jang thấy không thể thuyết phục được hoạn quan Thiên Thượng Quý của nhà Đường thì tiến hành phá hủy mối làm ăn giữa Thiên Thượng Quý và Jami phu nhân. Sau đó Trương Bảo Cao cùng Yeom Jang, Triệu Tương Kiến rời Dương Châu nhà Đường quay về Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) thuộc Tân La.

Cuối tháng 12 năm 838, Jami phu nhân từ Dương Châu nhà Đường (đời vua Đường Văn Tông) về đến kinh đô Kim Thành của Tân La thì chúc mừng vua Tân La Mẫn Ai Vương đã làm vua. Vua Tân La Mẫn Ai Vương nghe tin Trương Bảo Cao đã phá hỏng mối quan hệ giữa Tân La và nhà Đường thì phong cho Jami phu nhân toàn quyền thống lĩnh đại quân chinh phạt Thanh Hải trấn (Cheonghaejin). Jami phu nhân truyền lệnh tập hợp quân đội khắp nơi về kinh đô Kim Thành, tổng cộng 10 vạn quân. Jami phu nhân dồn binh về Võ Trân Châu (Muju), chuẩn bị xong sẽ vượt biển đánh vào Thanh Hải trấn.

Khi đó Trương Bảo Cao cũng đã về đến đảo Thanh Hải thì nghe tin vua Tân La Hi Khang Vương đã bị vua Tân La Mẫn Ai vương ép phải tự sát thì cả giận. Kim Dương thuyết phục Kim Hựu Trưng phải trả mối thù này. Kim Hựu Trưng hỏi Trương Bảo Cao (Jang Bogo) giúp mình tận dụng sự rối loạn của đất nước để đưa mình lên làm vua, chiếm lấy ngai vàng từ kẻ chiếm đoạt (vua Tân La Mẫn Ai Vương) đã giết cha của Kim Hựu Trưng. Trương Bảo Cao trả lời rằng:

:Người xưa có một câu nói, "Để xem điều gì đúng và không làm điều đó là muốn có lòng can đảm". Mặc dù tại hạ không có khả năng, nhưng tại hạ sẽ làm theo lệnh của Đại nhân (Kim Hựu Trưng)"

Trương Bảo Cao đồng ý giúp Kim Hựu Trưng và người bạn của ông là Trịnh Niên (Jeong Nyeon) và Thôi Võ Xương cũng đi theo Kim Hựu Trưng. Kim Hựu Trưng hứa hẹn với Trương Bảo Cao rằng nếu sau này ông ta lên làm vua thì sẽ cưới con gái Trương Nghĩa Anh (장의영, 張義英) của Trương Bảo Cao cho con trai Kim Khánh Ưng của ông ấy. Trương Bảo Cao tuyên bố khai chiến với kinh đô Kim Thành (Khánh Châu - Gyeongju), quyết định giương cao ngọn cờ "Bình Đông quân" đi đánh kinh đô Kim Thành, tôn Kim Hựu Trưng làm thủ lĩnh của Bình Đông quân.

Một cuộc chiến tranh lớn giữa Thanh Hải trấn với kinh đô Kim Thành nổ ra. Trương Bảo Cao đánh bại Jami phu nhân ở Đại Khâu (Daegu) đầu năm 839. Kim Dương đã đưa binh vào kinh đô Kim Thành tiến đánh hoàng cung Tân La. Vua Tân La Mẫn Ai Vương hoảng hốt rồi cùng các phụ tá bỏ hoàng cung để trốn. Kim Dương và Yeom Jang phái quân đi truy sát khắp Kim Thành để tìm vua. Tất cả các phụ tá của vua Tân La Mẫn Ai Vương đều bỏ chạy và để lại vua ở phía sau, vì vậy vua phải giấu mình trong một tòa nhà gần vương cung. Những người lính và Kim Dương đến cung vua và lục soát. Cuối cùng, Yeom Jang tìm thấy vua trong tòa nhà và giết sạch vài tên hộ vệ của vua. Kim Dương cũng đến và sát hại vua Tân La Mẫn Ai Vương bất chấp những lời cầu xin. Vua Tân La Mẫn Ai Vương chết dưới tay Kim Dương vào tháng 12 âm lịch năm 838, tức đầu năm 839. Thân tín của vua Tân La Mẫn Ai Vương là Kim Rihong cũng bị giết.

Tất cả châu huyện ở Tân La nghe tin đều quy hàng Bình Đông quân của Trương Bảo Cao và không chứa chấp Jami phu nhân. Trương Bảo Cao bắt được Jami phu nhân nhưng sau đó thả bà ta đi. Bà ta về Võ Trân Châu (Muju) thấy toàn bộ tài sản còn lại đều bị Kim Dương lấy đi thì uất hận, nhảy xuống biển phía nam Võ Trân Châu tự vẫn.

Lúc này Kim Hựu Trưng đã được Hội nghị Hoà Bạch

Việc Trương Bảo Cao phát triển Thanh Hải trấn (Cheonghae) thành trung tâm mậu dịch lớn của Tân La suốt 19 năm qua đã bị nhiều quý tộc hàng hải nhỏ Tân La của các tầng lớp xã hội phẫn nộ vì họ đã mất lợi nhuận từ các giao dịch hàng hải tư nhân ở Thanh Hải. Trương Bảo Cao đã hoạch định kế hoạch khi ông ta tiến hành việc kết hôn giữa con gái Trương Nghĩa Anh của mình với Văn Thánh Vương. Các phe phái quý tộc tại triều đình Tân La đã chán ngấy với mưu mô của Trương Bảo Cao (một người trong tất cả các khả năng từ nguồn gốc tỉnh tối nghĩa bên ngoài trật tự quý tộc của Tân La), sau đó họ đều đồng loạt âm mưu giết chết Trương Bảo Cao.

Để thực hiện lời hứa của cha ngày xưa, Văn Thánh Vương muốn lấy con gái Trương Nghĩa Anh của Trương Bảo Cao làm vợ thì bị giới quý tộc (đứng đầu là Quốc cữu Kim Dương) cực lực phản đối. Lý do việc này là vì Trương Bảo Cao xuất thân là giai cấp nô lệ. Kim Dương và các quý tộc gây áp lực để từ chối Trương Bảo Cao về cuộc hôn nhân giữa Văn Thánh Vương với con gái của Trương Bảo Cao. Quốc cữu Kim Dương còn buộc Văn Thánh Vương bãi chức những quan lại từng được Trương Bảo Cao phái đến kinh đô Kim Thành (chỉ còn Triệu Tương Kiến chưa bị bãi chức do ông này đã ứng xử khôn khéo với Kim Dương). Sứ giả hoàng cung được phái đến Thanh Hải cự tuyệt hôn sự. Kết quả là Trương Bảo Cao ở Thanh Hải trấn phẫn nộ với triều đình vì vua không chấp nhận con gái mình làm hoàng hậu, bắt đầu âm mưu chống lại triều đình Tân La ở kinh đô Kim Thành (Khánh Châu - Gyeongju). Thực tế là Văn Thánh Vương hay là tầng lớp quý tộc (đặc biệt là Quốc cữu Kim Dương) đứng sau sự việc nổi dậy này của Trương Bảo Cao vẫn chưa rõ ràng.

Mùa xuân năm 846 Trương Bảo Cao (Jang Bogo) ở Thanh Hải trấn (Cheonghae) bắt đầu cho tích trữ lương thảo, đóng đô ở Thanh Hải trấn (Cheonghae), muốn đánh đến kinh đô Kim Thành để thảo phạt Kim Dương và đám quý tộc thao túng Văn Thánh Vương. Kim Dương ở Kim Thành nghe tin thì cùng với Đội trưởng Jang Dae Chi và thủ hạ của hắn rời Kim Thành đến Thanh Hải trấn gặp Trương Bảo Cao.

Tại Thanh Hải, Quốc cữu Kim Dương buông lời cảnh cáo Đại sứ Thanh Hải trấn Trương Bảo Cao đừng kinh cử vọng trọng. Trương Bảo Cao cũng cảnh cáo lại Kim Dương rằng đừng hợp sức các quý tộc lấn át Văn Thánh Vương nữa, nếu không thì ông sẽ dẫn đại quân từ Thanh Hải đánh đến Kim Thành lần nữa. Kim Dương nổi giận rồi cùng Đội trưởng Jang Dae Chi dẫn thuộc hạ rời Thanh Hải về kinh đô Kim Thành. Trương Bảo Cao cho triệu tập quân đội 1 vạn quân để chờ ngày nổi dậy đánh đến Kim Thành. Kim Dương lệnh cho Đội trưởng Jang Dae Chi tống giam thân tín của Trương Bảo Cao ở kinh đô Kim Thành là Triệu Tương Kiến vào ngục.

Lúc này Trương Bảo Cao lên chức ông ngoại khi con gái Trương Huệ Anh của ông hạ sinh cháu trai là Kim Đĩnh Triết (김정철, 金挺喆) cho con rể Kim Thành Hải của ông. Mối quan hệ giữa Trương Bảo Cao và gia tộc Kim Hải Kim Thị càng lúc càng thắt chặt khiến Quốc cữu Kim Dương lo lắng.

Quốc cữu Kim Dương báo với Văn Thánh Vương rằng Trương Bảo Cao đã lập nên một xứ Thanh Hải không phân biệt giai cấp tức là có ý làm phản chế độ phong kiến. Triều đình Tân La lo rằng nếu khuất phục được Trương Bảo Cao sẽ gặp họa bất ngờ, còn nếu để Trương Bảo Cao yên thì không thể tha cho tội phản quốc này của ông nên lo lắng không biết nên xử lý như thế nào. Khi đó có một người rất dũng cảm và mạnh mẽ là trưởng lão Yeom Jang (염장, 閻長) đã từ quan về quê nhà Võ Trân Châu (Muju) từ trước. Ông ấy đến gặp Văn Thánh Vương và nói rằng:

:"Triều đình may mắn khi có người anh hùng như ta. Nếu triều đình vui vẻ nghe lời thỉnh cầu của ta, ta sẽ chém trả hoàng bào chỉ bằng nắm đấm mà không cần có tay sai."

Văn Thánh Vương nghe lời quần thần và các đại thần, không bận tâm nữa, rồi làm theo lời Yeom Jang (Diêm Trường). Yeom Jang ôm nắm đấm trống rỗng, cắt cung chúc phúc cho nhà vua, giả vờ phản bội đất nước Tân La. Văn Thánh Vương gọi toàn quân và toàn dân để nói rằng đừng ai hành động vào lúc này. Sau đó Yeom Jang (Diêm Trường), với tội danh phản quốc y như Trương Bảo Cao, đã tự mình đi đầu hàng Thanh Hải trấn (Cheonghaejin).

Khi Yeom Jang (Diêm Trường) đi Thanh Hải rồi, Quốc cữu Kim Dương và các quý tộc buộc Văn Thánh Vương cho phép Quốc cữu Kim Dương dẫn quân đi đánh dẹp Trương Bảo Cao. Kim Dương lệnh Đội trưởng Jang Dae Chi đưa đại binh 10 vạn quân chia hai ngả đến Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) để nhanh chóng đột kích 1 vạn quân của Trương Bảo Cao tại đó. Đích thân Kim Dương chỉ huy quân một cánh quân cùng Kim Ứng Thuận đến Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) thông qua Võ Trân Châu (Muju). Đội trưởng Jang Dae Chi chỉ huy cánh quân còn lại đi đường biển đến thẳng đảo Thanh Hải.

Yeom Jang đến đảo Thanh Hải thì được Trương Bảo Cao tiếp đón tử tế. Vì Trương Bảo Cao thích một thương gia mạnh mẽ như Yeom Jang nên ông ấy đã coi Yeom Jang như một vị khách danh dự mà không nghi ngờ gì. Vào tháng 11 năm 846, Trương Bảo Cao ngồi uống rượu với Yeom Jang trong 1 căn phòng chỉ có hai người và rất vui vẻ. Cuối cùng, khi Trương Bảo Cao say khướt, Yeom Jang (Diêm Trường) đã lấy thanh kiếm từ Trương Bảo Cao và cắt cổ Trương Bảo Cao. Năm đó Đại sứ Thanh Hải trấn Trương Bảo Cao thọ 59 tuổi, Quốc cữu Kim Dương (lúc này 43 tuổi) cùng Đội trưởng Jang Dae Chi dồn binh 10 vạn quân Kim Thành tổng tấn công vào Thanh Hải trấn. Thôi Võ Xương, Trịnh Niên, Jang Seong-pil chỉ huy quân Thanh Hải ra sức chống cự. Thôi Võ Xương, Trịnh Niên, Jang Seong-pil, tiểu thơ Phác Thái Trân (vợ của Trương Bảo Cao) đều bị giết. Quân Kim Thành bắt được nhiều tù binh Thanh Hải. Ở bến tàu Thanh Hải đang có những người dân Thanh Hải đang lên tàu để rời đi thì bị quân triều đình Kim Thành đuổi đến nơi. Yeom Jang (Diêm Trường) và Bạch Hà xông ra chặn quân Kim Thành lại để giúp những người dân Thanh Hải kịp lên 2 con tàu để rời khỏi Thanh Hải. Những người dân Thanh Hải nhanh chóng lên 2 con tàu. Trưởng lão Yeom Jang (Diêm Trường) và Bạch Hà đều tử chiến khi nỗ lực ghìm chân quân Kim Thành. Những binh sĩ Thanh Hải còn lại đều quy hàng quân triều đình Kim Thành. Những người dân Thanh Hải chia nhau ra 2 con tàu đi theo hai hướng: một hướng sang phía tây nam đi nhà Đường (đời vua Đường Tuyên Tông), hướng còn lại sang phía đông đi Nhật Bản (đời Thiên hoàng Montoku) để sinh sống đến hết đời.

Thanh Hải trấn (Cheonghaejin, nay là Hoàn đảo - Wando) bị quân triều đình Kim Thành của Kim Dương san bằng và bị giải tán. Tù binh và hàng binh Thanh Hải sau cuộc chiến thì bị phân tán tứ phương, có người sang tỉnh khác của nước Tân La, kẻ sang nhà Đường (đời vua Đường Tuyên Tông), người sang Nhật Bản (đời Thiên hoàng Montoku). Các cư dân Tân La còn lại trên đảo Thanh Hải sau đó bị triều đình Tân La cưỡng chế đến Byeokgolgun (nay là Gimje, tỉnh Jeonbuk). Từ đó Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) mất hẳn chức năng là hải cảng buôn bán quốc tế.

Năm 857 Quốc cữu Kim Dương qua đời, hưởng thọ 49 tuổi. Sau khi Văn Thánh Vương qua đời cùng năm 857, Văn Thánh Vương được chôn tại khu lăng mộ Khổng tước chỉ (공작지/孔雀趾/Gongjakji) ở Gyeongju. Chú của ông là Kim Hựu Tĩnh lên kế vị, tức là vua Tân La Hiến An Vương.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn Thánh Vương** (mất 857, trị vì 839–857) là quốc vương thứ 46 của Tân La. Ông là con trai cả của Thần Vũ Vương và Định Tông thái hậu Jeonggye. Ông có tên húy
**Văn Vũ Vương** (trị vì 661–681), tên thật là **Kim Pháp Mẫn**, là quốc vương thứ 30 của Tân La. Ông thường được coi là người trị vì đầu tiên của thời kỳ Tân La
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
**Thái Tông Vũ Liệt Vương** (tiếng Triều Tiên:태종무열왕, 太宗 武烈王, 603–661), tên thật là **Kim Chunchu** (), cai trị từ năm 654 đến 661 , là vị vua thứ 29 của vương quốc Silla (Sinra).
**Hiếu Thành Vương** (mất 742, trị vì 737-742) là người trị vì thứ 34 của vương quốc Tân La. Ông là con trai thứ hai của Thánh Đức Vương và vương hậu Chiếu Đức (Sodeok).
**Tuyên Đức Vương** (mất 785, trị vì 780–785) là người trị vì thứ 37 của vương quốc Tân La. Ông là hậu duệ đời thứ 11 của Nại Vật ni sư kim. Ông kết hôn
**Hi Khang Vương** (mất 838, trị vì 836–838) là người trị vì thứ 43 của Tân La. Ông là vương tôn của Nguyên Thánh Vương và là con trai của _y xan_ Kim Hiến Trinh
**Văn Thánh Vương** (_chữ Hán_ 文聖王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử Viễn Đông. ## Danh sách *Cơ Tử Triều Tiên Văn Thánh Vương Cơ Tử (còn gọi là
**Nguyên Thánh Vương** (trị vì 785-798, mất năm 798) là vị quốc vương thứ 38 của Tân La. Ông là hậu duệ đời thứ 12 của Nại Vật ni sư kim và có bà cố
**Hiếu Chiêu Vương** (trị vì 692–702) là người trị vì thứ 32 của Tân La. Ông là con trai cả của Thần Văn Vương cùng người phu nhân thứ hai là Thần Mục (神穆, Sinmok).
**Tân La** (; ; Tiếng Triều Tiên cổ: 徐羅伐 Syerapel, Sïrapïr; Romaja: _Seorabeol_; IPA: ; 57 TCN – 935 CN) là một trong Tam Quốc Triều Tiên, và là một trong số các Triều đại
**Văn Thành Vương** (_chữ Hán_: 文成王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ hoặc chư hầu ở phương Đông. ## Thụy hiệu * Thương Ân Văn Thành Vương * Tây
**Hiến An Vương** (mất 861, trị vì 857–861) là quốc vương thứ 47 của Tân La. Ông là đệ của Thần Vũ Vương. Tam quốc sử ký (_Samguk Sagi_) không cho biết nhiều về thời
**Thiện Đức Nữ vương** (tiếng Hàn: 선덕여왕), tên thật là **Kim Đức Mạn**, là nữ vương của nước Tân La (một trong ba vương quốc thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên gồm Cao Câu Ly,
**Thánh Đức Vương** (trị vì 702–737) là quốc vương thứ 33 của vương quốc Tân La. Ông là vương tử thứ hai của Thần Văn Vương, và là đệ của Hiếu Chiêu Vương. Năm 704,
**Thần Văn Vương** (trị vì 681 – 692) là quốc vương thứ ba mươi mốt của Tân La, là vua thứ 2 của thời kỳ Silla Thống Nhất. Ông là con trai cả của vị
**Thánh Vương** (chữ Hán: 聖王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và vài nhân vật lịch sử khác. ## Danh sách * Cơ Tử Triều Tiên Thọ Thánh Vương * Cơ Tử
**Tân La** hay **hậu Tân La** thống nhất là một nhà nước tồn tại trong thời gian từ năm 668 đến năm 935 tại Tân La nói riêng và bán đảo Triều Tiên nói chung.
**Lý quý nhân** (chữ Hán: 李贵人; ? - 456), là phi tần của Bắc Ngụy Văn Thành Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Bà là sinh mẫu của Bắc Ngụy Hiến
**Hà Tân** (chữ Hán giản thể: 河津市, âm Hán Việt: _Hà Tân thị_) là một thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Sở Thành vương** (chữ Hán: 楚成王, ?-626 TCN, trị vì 671 TCN-626 TCN), tên thật là **Hùng Uẩn** (熊恽) hay **Mị Uẩn** (芈恽), là vị vua thứ 23 của nước Sở - chư hầu nhà
**Jang Bo-go** (hangul: 장보고; Hán Việt: Trương Bảo Cao; sinh 787- mất 846) là nhân vật lịch sử người Triều Tiên sống vào cuối thời vương quốc Silla thống nhất. Ông đã thành lập một
**Tần Huệ Văn vương** (chữ Hán: 秦惠文王; 354 TCN - 311 TCN), là vị vua thứ 31 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Mẫn Ai Vương** (mất 839, trị vì 838–839) là quốc vương thứ 44 của Tân La. Ông là chắt của Nguyên Thánh Vương, và là con trai của _đại a xan_ Kim Trung Công (_Kim
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Chân Bình vương** (眞平王 진평왕 Jinpyeong; sống: 565? - 632, trị vì: 579 - 632), tên thật là **Kim Bạch Tịnh** (金白浄 김白淨), là vua thứ 26 của Tân La, một trong Tam Quốc (Triều
**Cảnh Đức Vương** (trị vì 742-765) là người trị vì thứ 35 của vương quốc Tân La. Ngày nay, ông được biết đến nhiều với các nỗ lực nhằm khuyến khích Phật giáo. Ông có
**Chân Hưng Vương** (540–576) là vua thứ 24 của Tân La, một trong Tam Quốc (Triều Tiên). Ông có tên húy là _Kim Tam Ma Tướng_ (김삼맥종, 金三麻将), là cháu của vua Tân La Pháp
**Tấn Giản Văn Đế** () (320 – 12 tháng 12 năm 372), tên thật là **Tư Mã Dục** (司馬昱), tên tự **Đạo Vạn** (道萬), là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Đông Tấn, và
**Tần Hiếu Văn vương** (chữ Hán: 秦孝文王, cai trị: 250 TCN), tên thật là **Doanh Trụ** (嬴柱), là vị vua thứ 34 của nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Chân Thánh nữ vương** (mất 897, trị vì 887–897), tên húy là **Kim Mạn** (金曼, 김만) hay **Kim Viên** (金垣, 김원), là người trị vì thứ 51 của vương quốc Tân La. Bà cũng là
**Hưng Đức Vương** (mất 836, trị vì 826–836) là người trị vì thứ 42 của vương quốc Tân La. Ông là đệ của Hiến Đức Vương. Ông kết hôn với Định Mục (Jeongmok) vương hậu,
**Tần Huệ Văn hậu** (chữ Hán: 秦惠文后, ? - 305 TCN) là một Vương hậu nước Tần thời Chiến Quốc, chính thất của Tần Huệ Văn vương, mẹ đẻ của Tần Vũ vương. ## Tiểu
**Cảnh Văn Vương** (845?–875) (trị vì 861–875) là quốc vương thứ 48 của Tân La. Ông là vương tôn của Hi Khang Vương, và là con trai của _a xan_ Kim Khải Minh (Kim Gye-myeong).
**Huệ Cung Vương** (756–780) (trị vì 765–780) là quốc vương thứ 36 của vương quốc Tân La trong lịch sử Triều Tiên. Ông là con trai của Cảnh Đức Vương và Mãn Nguyệt phu nhân
**Hạ Cơ** (chữ Hán: 夏姬; khoảng 300 TCN - 240 TCN) là một phi tần của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, mẹ đẻ của Tần Trang Tương vương Doanh Dị Nhân và bà nội
**Hiếu Cung Vương** (mất 912, trị vì 897–912) là quốc vương thứ 52 của Tân La. Ông là con trai ngoài giá thú của Hiến Khang Vương và phu nhân Uimyeong. Ông kết hôn với
**Hiến Khang Vương** (mất 886, trị vì 875–886) là quốc vương thứ 49 của Tân La. Theo Tam quốc sử ký (_Samguk Sagi_), ông nổi trội trên bình diện đối nội. Hiến Khang là con
**Văn Thành Bá** (_chữ Hán_:文成伯) là thụy hiệu của một số vị bá tước trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tào Ngụy Kỳ Dương Văn Thành Bá Tư
**Chân Trí vương** (mất ngày 17 tháng 7 năm 579) là vị vương thứ 25 của Tân La, một trong Tam Quốc (Triều Tiên). Thực tế, ông là hoàng tử thứ hai của Chân Hưng
**Cảnh Minh Vương** (mất 924, trị vì 917–924) là quốc vương thứ 54 của Tân La. Ông là con trai cả của Thần Đức vương và Nghĩa Thành (Uiseong) vương hậu họ Kim. Ông có
**Đông Thành Vương** (?-501, trị vì 479-501) là vị quốc vương thứ 24 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. ## Bối cảnh Ông là con trai của Côn Kĩ (Gonji), đệ của
**Trinh Thánh Vương hậu** (chữ Hán: 貞聖王后; Hangul: 정성왕후, 12 tháng 1 năm 1693 - 3 tháng 4 năm 1757) là Vương phi đầu tiên của Triều Tiên Anh Tổ. ## Cuộc đời Bà là
**Cảnh Ai Vương** (mất 927, trị vì 924–927) là quốc vương thứ 55 của vương quốc Tân La. Ông là con trai của Thần Đức Vương và Nghĩa Thành (Uiseong) vương hậu họ Kim, và
**Định Khang Vương** (mất 887, trị vì 886–887) là người trị vì thứ 50 của vương quốc Tân La. Ông là con trai thứ của Tân La Cảnh Văn Vương; anh ruột của ông là
**Pháp Hưng Vương** (trị vì 514–540) là người trị vì thứ 23 của Tân La. Ông có tên húy là _Kim Nguyên Chung_ (김원종, 金元钟). Trong thời gian ông trị vì, Phật giáo đã trở
**Nguyên Thành Vương hậu** (Hangul: 원성왕후, chữ Hán: 元成太后; ? – 15 tháng 8 năm 1028) là một Vương hậu thứ ba của Cao Ly Hiển Tông. Người ta cho rằng Kim Ân Phó là
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
**Minh Thánh Vương hậu** (13 tháng 6 năm 1642 - 21 tháng 1 năm 1684) hay **Hiển Liệt Đại phi** là vương phi của Triều Tiên Hiển Tông, quốc vương thứ 18 của Nhà Triều