Chân Thánh nữ vương (mất 897, trị vì 887–897), tên húy là Kim Mạn (金曼, 김만) hay Kim Viên (金垣, 김원), là người trị vì thứ 51 của vương quốc Tân La. Bà cũng là vị nữ vương thứ 3 và cuối cùng của đất nước (hai nữ vương khác là: Thiện Đức nữ vương và Chân Đức nữ vương).
Giai đoạn bà trị vì chứng kiến sự kết thúc của thời đại Tân La Thống nhất và bắt đầu thời đại Hậu Tam Quốc.
Chân Thánh nữ vương là con gái của Tân La Cảnh Văn Vương. Là em của Tân La Hiến Khang Vương và Tân La Định Khang Vương, bà lên ngôi vào năm 887 sau khi cả hai anh trai lần lượt qua đời mà không có con cái.
Cùng năm 887, học giả Thôi Trí Viễn từng dâng lên Chân Thánh nữ vương Thời vụ sách chứa mười một điều khuyên nhủ kẻ cai trị Tân La cần thi hành những biện pháp chính trị nhân từ để cứu vãn quốc gia nguy vong. Tuy nhiên, những đề xuất cải cách của Thôi Trí Viễn đều bị Chân Thánh nữ vương làm ngơ. Buồn bã, Thôi Trí Viễn sáng tác rất nhiều bài thơ biểu đạt sự bất mãn đối với hiện thực, phê phán tệ nạn xã hội và châm biếm thói đạo đức giả của những kẻ thuộc tầng lớp thống trị. Kết quả là Thôi Trí Viễn bị Chân Thánh nữ vương trách cứ và bị Chân Thánh nữ vương giáng xuống làm quan địa phương, giữ chức Thái thú quận Đại Sơn.
Chân Thánh được thuật trong Tam quốc sử ký (Samguk Sagi) rằng có hành vi đạo đức đồi bại và dâm đãng, từng hối lộ để đưa các chàng trai dễ thương vào cung và có hành vi dâm ô với họ. Bà cũng gây ầm ĩ bằng chuyện tình với một viên quan cấp cao là (giác can) Kim Ngụy Hoằng (Kim Wihong).
Tuy vậy, cũng nên lưu ý rằng Tam quốc sử ký được những học giả theo Nho giáo viết ra, và những người này có cái nhìn tiêu cực với việc phụ nữ nắm quyền, tương tự như thái độ với nữ hoàng Võ Tắc Thiên của Trung Quốc.
Dưới thời trị vì của Chân Thánh nữ vương, trật tự xã hội bị sụp đổ. Chân Thánh nữ vương là một người bất lực trong việc cai trị và triều đình Tân La phần lớn nằm dưới sự can thiệp của các thành viên vương thất Tân La và nạn hối lộ tràn lan cũng diễn ra tại triều đình. Sưu thuế không còn có thể thu và hệ thống quân dịch bắt buộc cũng sụp đổ. Triều đình tham nhũng tiếp tục vắt kiệt những người nông dân và kết quả làn nạn đói xảy ra rộng khắp tàn phá đất nước Tân La. Nhiều trong số các cuộc nổi dậy này ban đầu bùng phát từ quyết định sử dụng vũ lực để thu thuế của nông dân vào năm 889 của triều đình Tân La. Vào thời điểm này, hầu hết quyền lực trên bán đảo nằm trong tay các quý tộc địa phương, được gọi là hào tộc (호족, 豪族, hojok), những người thiếu lòng trung thành mạnh mẽ với chính quyền trung ương, đã nổi lên là những người cai trị thực tế của các châu, trong khi triều đình Tân La tập trung vào việc đàn áp các cuộc nổi dậy và các vấn đề quyền lực nội bộ. Triều đình Tân La đã cố gắng thực hiện một kế hoạch đánh thuế mạnh để đối phó với các cuộc nổi dậy.
Vào thời điểm đó, A Từ Giới (Ajagae), tức cha của Chân Huyên (tướng chỉ huy quân đội Tân La ở Jeolla, có nhiệm vụ trấn giữ miền ven biển Tây Nam Tân La) đã lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa nông dân địa phương và lập căn cứ tại Sangju. Trong khi cha của Chân Huyên (Gyeon Hwon) kiểm soát vùng Sangju, Chân Huyên đã tổ chức một cuộc khởi nghĩa nông dân của riêng mình, và sớm thu nạp được nhiều người đi theo. Năm 891, Lương Cát (Yang Gil) nổi dậy chống lại triều đình Tân La ở Bắc Nguyên.
Trong số các lãnh đạo nổi dậy và quý tộc địa phương, Cơ Huyên (Gi Hwon) ở tây nam và Lương Cát (Yang Gil) ở tây bắc là có được sức mạnh lớn nhất, họ đã nổi dậy và thành lập nên các vương quốc của riêng họ. cũng gia nhập vào lực lượng của Cơ Huyên để chống lại triều đình Tân La vào năm 891 song sớm ra đi sau đó do Cơ Huyên không đủ tin tưởng Cung Duệ. Cung Duệ lại gia nhập quân khởi nghĩa của Lương Cát vào năm 892, và trở thành tướng lãnh đạo của các đội quân nổi dậy sau khi đánh bại quân Tân La tại địa phương và các nhóm nổi dậy khác.
Cùng năm 892 Chân Huyên chiếm được các thành của Tân La ở Wansanju (Hoàn Sơn Châu) và Mujinju (hangul:무진주, hanja:武珍州, "Võ Trân Châu"), giành được quyền kiểm soát các lãnh thổ trước đây của Bách Tế và giành được sự ủng hộ của người dân trong vùng, những người vốn thù địch với triều đình Tân La. Sau đó, Chân Huyên đã dẫn quân đi chinh phục vùng tây nam Tân La.
Năm 895, Chân Thánh nữ vương phong cho con trai ngoài giá thú của Tân La Hiến Khang Vương là Kim Nghiêu (金嶢, 김요) làm Thế tử.
Chân Huyên (Gyeon Hwon) cho quân tiến đánh thành Daeyaseong (nay là huyện Hapcheon) ở tây nam kinh đô Kim Thành của Tân La (đời Chân Thánh nữ vương), giết chết tướng giữ thành là Kim Đĩnh Triết (김정철, 金挺喆) nhưng không chiếm được thành, phải rút lui.
Vua Đại Vĩ Hài của vương quốc Bột Hải đã cử vương tử Đại Phong Duệ (Dae Bong-ye, khi đó đã hơn 15 tuổi) cùng đoàn sứ giả người Bột Hải sang nhà Đường (đời vua Đường Chiêu Tông) tiến cống cùng năm 895, ngẫu nhiên lại trùng hợp lúc sứ giả nước Tân La (đời vua Chân Thánh nữ vương) cũng đến Trường An nhà Đường, điều này phát sinh sự kiện tranh tịch giữa Bột Hải và Tân La. Học giả Tân La là Thôi Trí Viễn ghi rằng Đại Phong Duệ và đoàn sứ giả người Bột Hải ở Trường An nhà Đường đã tự xưng Bột Hải là "Mạt Hạt", "Túc Mạt Tiểu Phiên", đồng thời nhận nước Tân La là thượng quốc. Bởi lẽ khi đó giới quý tộc gốc Cao Câu Ly trong triều đình Bột Hải đã bị người Mạt Hạt lấn át quyền hành và dân số người Mạt Hạt trong lãnh thổ vương quốc Bột Hải này cũng đã chiếm tỷ lệ cao hơn người gốc Cao Câu Ly. Một số sứ thần Bột Hải cũng đã mang họ Mạt Hạt.
Lúc đó tại Tân La đang có 2 cuộc khởi nghĩa lớn của thủ lĩnh Chân Huyên và tướng Cung Duệ dưới quyền thủ lĩnh Lương Cát cầm đầu. Các cuộc khởi nghĩa này bùng phát khắp nơi với số lượng quân đông và mạnh, đánh phá các nơi, giết bọn quan lại Tân La và bọn giặc cướp địa phương khác. Trong năm 895, Cung Duệ đem quân đánh vùng Tây Bắc của nước Tân La, là nơi tọa lạc của vùng Songdo - nơi quý tộc địa phương là cha con Vương Long (Wang Ryung 왕륭, 王隆) và Vương Kiến (Wang Geon 왕건, 王建) đang sinh sống. Cha con Vương Long và Vương Kiến thấy quân khởi nghĩa kéo đến, ngay lập tức họ quy hàng. Vương Kiến đến gặp và xin nguyện ở dưới trướng của Cung Duệ. Cung Duệ đã chiếm được nhiều đất đai và lập căn cứ tại Myeongju (명주, 溟州, Minh Châu), tức Gangneung ngày nay cùng năm 895 với sự ủng hộ của các lãnh đạo bản địa. Hầu hết quý tộc địa phương ở Myeongju và Paeseo cũng đã gia nhập lực lượng của Cung Duệ, khiến cho Cung Duệ thậm chí còn mạnh hơn so với thủ lĩnh Lương Cát.
Cùng năm 897 tướng Cung Duệ dưới quyền thủ lĩnh Lương Cát đã dẫn quân đánh bại thủ lĩnh Lương Cát và giết Lương Cát, cướp quyền lãnh đạo nghĩa quân.
Vào tháng thứ 6 âm lịch năm 897, Chân Thánh nữ vương thoái vị, và qua đời trong cùng năm 897. Bà được chôn tại phía bắc Sư Tử tự (Sajasa) ở Gyeongju. Thái tử Kim Nghiêu (金嶢, 김요) lên kế vị, tức là vua Tân La Hiếu Cung Vương.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chân Thánh nữ vương** (mất 897, trị vì 887–897), tên húy là **Kim Mạn** (金曼, 김만) hay **Kim Viên** (金垣, 김원), là người trị vì thứ 51 của vương quốc Tân La. Bà cũng là
**Chân Đức nữ vương** (), tên thật **Kim Seung-man** (), là một nữ vương của Tân La, một trong Tam Quốc Triều Tiên, trị vì từ năm 647 đến năm 654. Bà là con của
**Nữ vương** (chữ Hán: 女王, tiếng Anh: _Queen Regnant_) hay **Nữ chúa** (chữ Hán: 女主) là vị quân chủ nữ giới của một Vương quốc, ngang hàng với một vị vua hoặc Quốc vương. Những
**Thiện Đức Nữ vương** (tiếng Hàn: 선덕여왕), tên thật là **Kim Đức Mạn**, là nữ vương của nước Tân La (một trong ba vương quốc thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên gồm Cao Câu Ly,
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Anne, Vương nữ Vương thất** KG KT GCVO (**Anne Elizabeth Alice Louise**, sinh vào ngày 15 tháng 8 năm 1950), là con thứ hai và con gái duy nhất của Nữ vương Elizabeth II và
**Nữ vương Yoshiko** (28 tháng 10 năm 1804 – 27 tháng 1 năm 1893) là em gái của vương tước Tsunahito thuộc nhánh Hữu Tê Xuyên cung (Arisugawa-no-miya), một trong những nhánh họ của Hoàng
là thành viên của Hoàng gia Nhật Bản, nhánh Tam Lạp cung và là con gái lớn của Thân vương Tomohito với vợ ông là Thân vương phi Nobuko. ## Tiểu sử ### Giáo dục
nhỏ|Chân dung Anna của Hannover – tranh của Bernardus Accama (năm 1736) **Anne của Đại Anh** (tiếng Anh: _Anne of Great Britain_; tiếng Đức: _Anna von Großbritannien_; ; 2 tháng 11 năm 1709 - 12
thumb|Victoria của Anh Xuất thân thực sự của Victoria của Anh đã trở thành chủ đề của các cuộc nghiên cứu. Những nghi ngờ về việc này chủ yếu xoay quanh các vấn đề bệnh
**Thái thượng vương** (chữ Hán:太上王), hay **Thái thượng quốc vương** (太上國王), gọi tắt là **Thượng Vương** (上王), là ngôi vị mang nghĩa là "vua bề trên" trong triều đình phong kiến ở khu vực Á
nhỏ|218x218px|Nữ vương Elizabeth II Nữ vương Elizabeth II, thường gọi thành **Nữ hoàng Elizabeth II**, là nguyên thủ quốc gia của 32 nước trong Khối thịnh vượng chung Anh từ năm 1952. Hiện tại, Khối
nhỏ|phải|Quách Nữ vương **Văn Đức Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 文德郭皇后; 8 tháng 4 năm 184 – 14 tháng 3 năm 235), không rõ tên, biểu tự là **Nữ Vương** (女王), tuy là kế thất
**Chân Huyên** (867?-936, trị vì 900-935) là người sáng lập nên Hậu Bách Tế, một vương quốc trong thời đại Hậu Tam Quốc trên bán đảo Triều Tiên. Ông cũng là tổ tiên của gia
**Triều đại Tudor** hoặc **Nhà Tudor** là một Vương thất châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong
**Leopold của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Albany** (_Leopold George Duncan Albert_; 7 tháng 4 năm 1853 - 28 tháng 3 năm 1884) là con thứ tám và là con trai út của Victoria
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Alexandra Duff, Nữ Công tước thứ 2 xứ Fife**, (17 tháng 5 năm 1891 – 26 tháng 2 năm 1959), tên khai sinh là **Công nữ Alexandra Duff**, sau là **Vương tôn nữ Alexandra** và
**_Nữ vương huyền thoại_** là một bộ phim sử thi lịch sử của Mỹ năm 2022 kể về Agojie, đơn vị toàn nữ chiến binh đã bảo vệ vương quốc Dahomey ở Tây Phi trong
**Mary Tudor** (/ˈtjuːdər/; tiếng Pháp: _Marie Tudor_; tiếng Tây Ban Nha: _María Tudor_; sinh ngày 18 tháng 3 năm 1496 – mất ngày 25 tháng 6 năm 1533) là một vương nữ người Anh, từng
**Hiếu Cung Vương** (mất 912, trị vì 897–912) là quốc vương thứ 52 của Tân La. Ông là con trai ngoài giá thú của Hiến Khang Vương và phu nhân Uimyeong. Ông kết hôn với
THẢO DƯỢC NGÂM CHÂN - THỦY CHÂM VƯỢNG KHỚPQUY CÁCH ĐÓNG GÓI THẢO DƯỢC NGÂM CHÂN:- Túi gồm 30 gói nhỏ.THÀNH PHẦN THẢO DƯỢC NGÂM CHÂN - THỦY CHÂM VƯỢNG KHỚP:Các thành phần chính gồm:
**Định Khang Vương** (mất 887, trị vì 886–887) là người trị vì thứ 50 của vương quốc Tân La. Ông là con trai thứ của Tân La Cảnh Văn Vương; anh ruột của ông là
**Irene thành Athena** hay **Irene người Athena** () (752 – 803) là tên thường gọi của **Irene Sarantapechaina** (), là Nữ hoàng Đông La Mã đương vị từ năm 797 đến 802. Trước khi trở
nhỏ|313x313px|Thánh chỉ **Thánh** (chữ Hán: 聖) là từ ngữ thể hiện sự thiêng liêng, cao cả, tôn kính, thường dùng để miêu tả phẩm chất của các vị thần thánh, thiên sứ, tiên nhân hoặc
Nàng muốn cùng làn da thăng hoa, refresh năng lượng sau ngày dài tất bật?Nàng yêu thích một cơ thể mịn mượt, vấn vít hương thơm ngọt ngào nhẹ dịu?Nàng đang tìm kiếm một sản
Nàng muốn cùng làn da thăng hoa, refresh năng lượng sau ngày dài tất bật?Nàng yêu thích một cơ thể mịn mượt, vấn vít hương thơm ngọt ngào nhẹ dịu?Nàng đang tìm kiếm một sản
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**Hatshepsut** hay **Hatchepsut** (), (khoảng 1508-1458 TCN) là con gái của pharaon Thutmosis I đồng thời vừa là chị cùng cha khác mẹ vừa là vợ của pharaon Thutmosis II, trị vì Ai Cập trong
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Tây Vương Mẫu** (chữ Hán: 西王母, còn gọi là **Vương Mẫu** (王母), **Dao Trì Kim Mẫu** (hay **Diêu Trì Kim Mẫu**, 瑤池金母), **Tây Vương Kim Mẫu** (西王金母), **Vương Mẫu Nương Nương** (王母娘娘) hoặc **Kim Mẫu
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Wilhelmina** (; _Wilhelmina Helena Pauline Maria_; 31 tháng 8 năm 1880 – 28 tháng 11 năm 1962) là Nữ vương của Hà Lan từ năm 1890 cho đến khi thoái vị vào năm 1948. Bà
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Elizabeth Angela Marguerite Bowes-Lyon** (4 tháng 8 năm 1900 – 30 tháng 3 năm 2002) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự trị của Anh từ ngày 11
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Mary II của Anh** (30 tháng 4 năm 1662 – 28 tháng 12 năm 1694) là đồng quân vương của Vương quốc Anh, Scotland, và Ireland cùng với chồng và cũng là anh họ, Willem
**Nghĩa Từ Vương** (? - 660?, trị vì 641 - 660) là vị quốc vương thứ 31 và cuối cùng của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Thời kỳ trị vì của ông
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Elsa**, còn được biết đến với tên gọi **Nữ hoàng băng giá**, là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 53 của Walt Disney Animation Studios, _Nữ
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Chân hoàng hậu** (; 26 tháng 1 năm 183 - 4 tháng 8, 221), còn được gọi là **Chân Phục** (甄宓) hoặc **Chân Lạc** (甄洛), đương thời xưng là **Chân phu nhân** (甄夫人), là nguyên
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người