✨Mẫn Ai vương

Mẫn Ai vương

Mẫn Ai Vương (mất 839, trị vì 838–839) là quốc vương thứ 44 của Tân La. Ông là chắt của Nguyên Thánh Vương, và là con trai của đại a xan Kim Trung Công (Kim Chung-gong). Mẫu thân của ông là Quý Bảo (Gwibo) phu nhân họ Phác (Bak). Ông kết hôn với con gái của giác can Kim Yeong-gong. Ông có tên húy là Kim Minh (金明, 김명)

Năm 835, Tể tướng Kim Trung Công (cha của Kim Minh) đột ngột qua đời ở kinh đô Kim Thành, Kim Quân Trinh (cha của Kim Hựu Trưng) lên làm Tể tướng. Theo luật lệ của Tân La thì hai cha con không thể giữ chức Tể tướng và Sử trung đại nhân, vì hai chức này là đối trọng lẫn nhau. Kim Hựu Trưng liền tự nhường chức Sử Trung đại nhân cho Kim Minh. Jami phu nhân (khi đó đang ủng hộ Kim Minh) cùng Kim Minh phái thích khách đi hành thích Kim Hựu Trưng nhưng thất bại. Kim Hựu Trưng ghi hận trong lòng.

Năm 836 vua Tân La Hưng Đức Vương lâm bệnh nặng. Sử trung đại nhân Kim Minh cùng Jami phu nhân liền triệu tập Hội nghị các quý tộc định bàn chuyện lên ngôi và lập kế giết Kim Quân Trinh và Kim Hựu Trưng. Kim Dương muốn lấy được sự tín nhiệm của Kim Hựu Trưng nên sai Yeom Jang đi hành thích Kim Minh. Jami phu nhân sai người đưa thi thể Kim Minh bỏ trốn. Kim Hựu Trưng và Kim Quân Trinh trách mắng Kim Dương, nhưng việc đã rồi. Kim Quân Trinh cho Kim Dương điều động binh tiễu trừ hết vây cánh Kim Minh, làm cho Kim Thành rối loạn trong bể máu. Việc này loan đến Thanh Hải khiến Trương Bảo Cao thất vọng về Kim Hựu Trưng, một con người không màng chính sự mà bây giờ lại làm ra cuộc đấu tranh đẫm máu thế này.

Biết bệnh nặng không qua khỏi, vua Tân La Hưng Đức Vương bí mật gọi Trương Bảo Cao tại Thanh Hải về và trao ấn tín hoàng đế Tân La, dặn rằng sau hội nghị Hòa Bạch, ai được bầu lên ngôi vua thì đưa ấn tín hoàng đế Tân La cho người đó, tránh việc tranh đoạt đổ máu. Trương Bảo Cao nhận mệnh và về Thanh Hải. Không lâu sau, vua Tân La Hưng Đức Vương qua đời mà không có con kế vị. Vua Tân La Hưng Đức Vương được chôn cất tại Angang-hyeon, nay là Angang-eup, Gyeongju, Gyeongsang Nam. Trương Bảo Cao vì sợ ngọc tỷ bị cướp nên không đến Kim Thành dự tang lễ của vua mà ở Thanh Hải lập bài vị của vua và cho dân chúng cúng bái.

Kim Quân Trinh đang làm tể tướng nên đương nhiên sẽ được kế vị ngôi vua Tân La. Kim Đễ Long (cháu trai của vua Tân La Hưng Đức Vương) biết Kim Minh còn sống thì liền triệu tập các quý tộc để tính chuyện chống lại cha con Kim Quân Trinh và Kim Hựu Trưng. Từ đây Kim Đễ Long cùng thúc phụ (em họ của vua Tân La Hưng Đức Vương) là Kim Quân Trinh (Kim Gyunjeong) tranh giành quyền lực. Sau đó, Kim Hựu Trưng cố gắng thuyết phục Kim Đễ Long và phe cánh của ông ấy ủng hộ cha ông là Tể tướng Kim Quân Trinh lên ngôi. Kết quả tại Hội nghị Hoà Bạch), nhờ ông ấy xin vua Đường Văn Tông ban lệnh cấm thương thuyền nhà Đường đến Thanh Hải trấn của Tân La (đời vua Tân La Hi Khang Vương), để cô lập hoàn toàn Trương Bảo Cao, đồng thời xin triều đình nhà Đường ủng hộ Kim Minh làm vua Tân La thay cho vua Tân La Hi Khang Vương đương vị. Đổi lại Jami phu nhân hứa sẽ cắt đất Hán Châu (Hanju) và Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) của Tân La cho Thiên Thượng Quý.

Lúc này vua Tân La Hi Khang Vương ở kinh đô Kim Thành đã bị quân đội của Thượng đại đẳng Kim Minh bao vây hoàng cung thì sợ hãi. Vua Tân La Hi Khang Vương sai sứ đến Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) nhằm xin Trương Bảo Cao ra quân giúp đỡ nhưng Trương Bảo Cao đã đi Dương Châu nhà Đường. Các tướng của Trương Bảo Cao là Thôi Võ Xương, Trịnh Niên không quyết định được khi Trương Bảo Cao đi vắng. Kim Dương đốc thúc Kim Hựu Trưng nên tự đứng ra thống lĩnh 1 vạn quân ở Thanh Hải đi đánh kinh đô Kim Thành nhưng Kim Hựu Trưng do dự không quyết.

Tháng 12 năm 838 ở kinh đô Kim Thành của Tân La, Thượng đại đẳng Kim Minh biết tin vua Tân La Hi Khang Vương từng sai sứ đến Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) xin Trương Bảo Cao ra quân giúp đỡ thì nổi giận. Kim Minh kéo quân đánh vào hoàng cung, giết chết một vài phụ tá của vua và buộc vua Tân La Hi Khang Vương uống thuốc độc tự sát. Vua Tân La Hi Khang Vương được chôn tại núi Sosan ở kinh đô Kim Thành (Khánh Châu - Gyeongju). Kim Minh tự lập làm vua của Tân La, tức là vua Tân La Mẫn Ai vương.

Khi đó Kim Hựu Trưng sau bao lần chần chừ chưa quyết thì nay mới quyết định mang quân của Thanh Hải đánh vào hoàng cung Kim Thành cứu vua Tân La Hi Khang Vương. Tuy nhiên tin tức vua Tân La Hi Khang Vương đã tự sát ở kinh đô Kim Thành khiến Kim Hựu Trưng hối hận về sự chần chừ trễ nải của mình.

Vua Bột Hải Trang Tông của vương quốc Bột Hải tiến hành các hoạt động thương mại với Tân La (đời vua Tân La Mẫn Ai Vương).

Cuối tháng 12 năm 838, Jami phu nhân từ Dương Châu nhà Đường (đời vua Đường Văn Tông) về đến kinh đô Kim Thành của Tân La thì chúc mừng Mẫn Ai vương đã làm vua. Mẫn Ai vương nghe tin Trương Bảo Cao đã phá hỏng mối quan hệ giữa Tân La và nhà Đường thì phong cho Jami phu nhân toàn quyền thống lĩnh đại quân chinh phạt Thanh Hải trấn (Cheonghaejin). Jami phu nhân truyền lệnh tập hợp quân đội khắp nơi về kinh đô Kim Thành, tổng cộng 10 vạn quân. Jami phu nhân dồn binh về Võ Trân Châu (Muju), chuẩn bị xong sẽ vượt biển đánh vào Thanh Hải trấn.

Mô hình Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) của [[Trương Bảo Cao]] Trương Bảo Cao cũng tuyên bố khai chiến với kinh đô Kim Thành (Khánh Châu - Gyeongju), quyết định giương cao ngọn cờ "Bình Đông quân" đi đánh kinh đô Kim Thành, tôn Kim Hựu Trưng làm thủ lĩnh của Bình Đông quân. Trương Bảo Cao thống lĩnh 5000 quân, Trịnh Niên thống lĩnh 5000 quân để cố vấn cho những yêu cầu của Kim Hựu Trưng. Trương Bảo Cao còn phong Yeom Jang làm phó tướng của Bình Đông quân. Một cuộc chiến tranh lớn giữa Thanh Hải trấn với kinh đô Kim Thành nổ ra.

Trương Bảo Cao nhờ Kim Hựu Trưng dẫn quân rời Thanh Hải đi thuyền cập bến Hoàng Đạo rồi tiến đến Đại Khâu (Daegu) để đánh lạc hướng quân đội Kim Thành. Jami phu nhân lúc này đã từ Kim Thành đến Võ Trân Châu (Muju), nghe tin Kim Hựu Trưng đến Đại Khâu thì mừng rỡ, phái đại quân tiến đến Đại Khâu chặn Kim Hựu Trưng và phái quân từ Võ Trân Châu đi thuyền đến đánh đảo Thanh Hải nhằm chia cắt hai cánh quân của Trương Bảo Cao.

Tuy nhiên Trương Bảo Cao quyết định đánh chiếm Võ Trân Châu (đất liền phía bắc đảo Thanh Hải) trước, rồi dùng nơi đó làm căn cứ để tổ chức chiến tranh với quân đội triều đình Tân La. Trương Bảo Cao phái Kim Dương, Kim Ứng Thuận, Jang Dae Chi dẫn quân đi tấn công các đội quân Kim Thành ở một số châu huyện xung quanh Võ Trân Châu. Kế đó đích thân Trương Bảo Cao cùng Trịnh Niên, Thôi Võ Xương, Yeom Jang nhân đêm tối lẻn vào trụ sở Võ Trân Châu giết chết bọn lính canh, bắt sống đô đốc Võ Trân Châu và buộc hắn đầu hàng Bình Đông quân. Võ Trân Châu nhanh chóng rơi vào tay Trương Bảo Cao. Kim Dương nghe tin Jami phu nhân ở Võ Trân Châu thì phái Yeom Jang đi bắt bà ta. Nhưng Jami phu nhân đã trốn thoát.

Jami phu nhân cho quân rút khỏi thành Nam Nguyên (Namwon), nhanh chóng tập trung binh lực 10 vạn quân tại Đại Khâu (Daegu) nhằm tiêu diệt 1 vạn quân của Trương Bảo Cao. Jami phu nhân còn phái quân đi đường biển vòng ra phía sau quân đội của Trương Bảo Cao để chia cắt con đường vận lương của Trương Bảo Cao.

Lúc này Kim Hựu Trưng tiến đến Đại Khâu (Daegu), thấy 10 vạn quân Kim Thành thì dẫn quân quay về Võ Trân Châu (Muju) hội quân với Trương Bảo Cao. Rất nhiều quan quân châu huyện lân cận Võ Trân Châu đều quy thuận Bình Đông quân. Lực lượng Bình Đông quân đã nhiều hơn rất nhiều. Khi đó quân đội của Trương Bảo Cao đang cần quân lương nên sai người gửi thư về Thanh Hải gọi quân lương. Tuy nhiên đoàn quân lương của Trương Bảo Cao đến Lâm Trì trấn thì bị quân Kim Thành đột kích. Lương thảo của Bình Đông quân bị cướp sạch. Thấy Bình Đông quân đang lâm vào hoàn cảnh thiếu lương, sĩ khí sa sút, Jami phu nhân quyết tâm dồn binh 10 vạn quân Kim Thành đến Đại Khâu triển khai quyết chiến nhằm tiêu diệt hết 1 vạn quân của Trương Bảo Cao và Kim Hựu Trưng.

Đầu năm 839, ở Võ Trân Châu (Muju), Trương Bảo Cao lệnh cho Yeom Jang mang vài cận vệ tài giỏi từ bến tàu Đỗ Lĩnh đột nhập vào hoàng cung Kim Thành để chiếm 5 phong hoả đài, đốt các phong hoả đài đó và chiếm lĩnh cổng thành Kim Thành trước. Yeom Jang nhận lệnh dẫn Jang Dae Chi, Bạch Hà đến Kim Thành. Sau đó Kim Dương được lệnh của Trương Bảo Cao dẫn quân đi mai phục ở gần cổng thành Kim Thành. Kế đó, Trương Bảo Cao sắp xếp trong ngoài và hẹn ngày tiến đánh Đại Khâu (Daegu).

Đêm đó 10 vạn quân do Jami phu nhân chỉ huy rời kinh đô Kim Thành để đến Đại Khâu. Bấy giờ, Yeom Jang cùng Jang Dae Chi, Bạch Hà đã lẻn vào hoàng cung Kim Thành tiêu diệt các toán quân canh gác. Sáng hôm sau, 10 vạn quân Kim Thành do Jami phu nhân chỉ huy tiến đến Đại Khâu (Daegu) chờ quân đội Trương Bảo Cao, Kim Hựu Trưng đến. Sau đó 1 vạn quân của Trương Bảo Cao, Kim Hựu Trưng, Trịnh Niên, Thôi Võ Xương, Jang Seong-pil từ Võ Trân Châu (Muju), vượt qua Nam Nguyên (Namwon), đến được Đại Khâu. Khi đó Yeom Jang ở kinh đô Kim Thành giết hết binh sĩ ở 5 phong hoả đài và cổng thành Kim Thành, cuối cùng Yeom Jang nổi lửa trên 5 phong hoả đài làm hiệu. Bên ngoài Kim Thành, quân của Kim Dương, Kim Ứng Thuận đánh tan các đạo quân triều đình Tân La tại các quận, huyện gần Kim Thành.

Tại Đại Khâu (Daegu), Jami phu nhân định cho 10 vạn quân của mình tấn công 1 vạn quân của Trương Bảo Cao thì nhận tin 5 phong hỏa đài ở kinh đô Kim Thành đã nổi lửa, tức là hoàng cung Kim Thành đã bị chiếm. Jami phu nhân lo sợ tính mạng Mẫn Ai Vương khó bảo toàn nên bà ta cho 5 vạn quân trở về cứu viện Kim Thành, để 5 vạn quân ở lại ngắn vạn quân của Trương Bảo Cao. Trương Bảo Cao cùng Trịnh Niên, Thôi Võ Xương, Jang Seong-pil mở cuộc tấn công mạnh vào Đại Khâu. Bị giảm số lượng quân đội và tâm lý hoang mang việc Kim Thành thất thủ, quân của Jami phu nhân nhanh chóng rối loạn, yếu thế.

Năm vạn quân của Jami phu nhân trở về cứu Kim Thành đã bị quân của Kim Dương phục kích. Quân triều đình Tân La chết vô số và tan rã. Tin tức này truyền đến Đại Khâu khiến Jami phu nhân thất kinh. Quân đội của Trương Bảo Cao nghe tin Kim Dương thắng lợi thì đánh càng hăng thêm, quân của Jami phu nhân chết rất nhiều. Số đông quân Kim Thành bỏ trốn hoặc đầu hàng Trương Bảo Cao vô số kể. Jami phu nhân liền hạ lệnh rút quân khỏi Đại Khâu chạy về phía bắc. Trương Bảo Cao dẫn Trịnh Niên, Thôi Võ Xương, Jang Seong-pil truy kích tàn quân của Jami phu nhân. Còn Kim Hựu Trưng dẫn đại quân tiến vào kinh đô Kim Thành (Khánh Châu - Gyeongju).

Lúc này Kim Dương đã đưa binh vào kinh đô Kim Thành hội với Yeom Jang, rồi cùng tiến đánh hoàng cung Tân La. Mẫn Ai Vương hoảng hốt rồi cùng các phụ tá bỏ hoàng cung để trốn. Kim Dương và Yeom Jang phái quân đi truy sát khắp Kim Thành để tìm vua. Tất cả các phụ tá của vua Mẫn Ai Vương đều bỏ chạy và để lại vua ở phía sau, vì vậy vua phải giấu mình trong một tòa nhà gần vương cung. Những người lính và Kim Dương đến cung vua và lục soát. Cuối cùng, Yeom Jang tìm thấy vua trong tòa nhà và giết sạch vài tên hộ vệ của vua. Kim Dương cũng đến và sát hại Mẫn Ai Vương bất chấp những lời cầu xin. Mẫn Ai Vương chết dưới tay Kim Dương vào tháng 12 âm lịch năm 838, tức đầu năm 839. Thân tín của Mẫn Ai vương là Kim Rihong cũng bị giết.

Tất cả châu huyện ở Tân La nghe tin đều quy hàng Bình Đông quân của Trương Bảo Cao và không chứa chấp Jami phu nhân. Khi đó Trương Bảo Cao, Trịnh Niên, Thôi Võ Xương, Jang Seong-pil đưa binh truy kích Jami phu nhân đến đêm tối và cuối cùng cũng bắt được Jami phu nhân giải về kinh đô Kim Thành để chờ ngày xử tử hình. Trương Bảo Cao sau đó cho thả Jami phu nhân ra, bố trí cho bà ta 1 con thuyền để đi sang nhà Đường (đời vua Đường Văn Tông). Jami phu nhân không lên thuyền mà tự mình đi đến Võ Trân Châu (Muju) để tìm lại khối tài sản lớn mà bà ta cất giấu. Tuy nhiên khi bà ta vừa đến ngôi nhà ấy thì thấy Kim Dương đang sai thuộc hạ mang hết tài sản của bà ta đi. Jami phu nhân giận dữ và thất vọng, cuối cùng nhảy xuống biển phía nam Võ Trân Châu (Muju) tự sát.

Lúc này Kim Hựu Trưng đã được Hội nghị Hoà Bạch tôn lên ngôi vua, chỉ chờ ngày đăng cơ. Tháng 4 âm lịch năm 839, Trương Bảo Cao, Thôi Võ Xương, Trịnh Niên, Jang Seong-pil dẫn đại quân rời kinh đô Kim Thành trở về Thanh Hải trấn (Cheonghaejin). Cũng trong ngày hôm đó Kim Hựu Trưng làm lễ đăng cơ lên ngôi vua Tân La ở kinh đô Kim Thành, tức là vua Tân La Thần Vũ Vương.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mẫn Ai Vương** (mất 839, trị vì 838–839) là quốc vương thứ 44 của Tân La. Ông là chắt của Nguyên Thánh Vương, và là con trai của _đại a xan_ Kim Trung Công (_Kim
**Ai Vương** (chữ Hán: 哀王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ hoặc phiên vương hay quận vương và thân vương trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông.
**Hiến Ai Vương hậu** (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay **Thiên Thu Vương thái hậu** (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
**Văn Thánh Vương** (mất 857, trị vì 839–857) là quốc vương thứ 46 của Tân La. Ông là con trai cả của Thần Vũ Vương và Định Tông thái hậu Jeonggye. Ông có tên húy
**Vương Diên Hy** (王延羲) (?-8 tháng 4 năm 944 Do Vương Kế Bằng thường nghi kị, sát hại tông thất, Tả bộc xạ, Đồng bình chương sự Vương Diên Hy phải giả vờ cuồng vọng
**Vương Kế Bằng** (, ?- 29 tháng 8, 939 song bia mộ nguyên thê của Vương Diên Quân là phu nhân Lưu Hoa thì cho thấy rằng Vương Kế Bằng là thứ tử của Vương
**Vương Diên Quân** () (?- 17 tháng 11 năm 935 Mẹ của ông là Hoàng thị, trắc thất của Vương Thẩm Tri. ## Thời Vương Thẩm Tri vị vì Năm 917, trong lúc đang là
nhỏ|Dục Lãng - đại tông Định vương phủ đời thứ 7 **Hòa Thạc Định Thân vương** (chữ Hán: 和碩定親王, ) là tước vị Thân vương truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Lãnh địa vương quyền** (tiếng Anh: _Crown Dependencies_; tiếng Pháp: _Dépendances de la Couronne_; tiếng Man: _Croghaneyn-crooin_) là lãnh thổ đảo thuộc Quần đảo Anh, hưởng quyền tự trị rộng rãi dưới quyền quản lý
**Lưu Thắng** ( ? - 113 TCN), tức **Trung Sơn Tĩnh vương** (中山靖王), là chư hầu vương đầu tiên của nước Trung Sơn, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng
🥰🥰🥰Lì Xì Thần Tài _Mang lại may mắn🥰🥰 ❤️❤️❤️❤️ ✅Ai kinh doanh , mong muốn buôn may bán đắt - tài lộc thì k thể thiếu đc đâu nhé !!! 🧧 LÌ XÌ THẦN TÀI
**Lưu Vinh** (chữ Hán: 劉榮; 170 TCN - 148 TCN), tức **Lịch Thái tử**/ **Lật Thái tử** (栗太子) hoặc **Lâm Giang Mẫn vương** (臨江閔王), là Hoàng tử nhà Hán, từng là Hoàng thái tử phế
**Hi Khang Vương** (mất 838, trị vì 836–838) là người trị vì thứ 43 của Tân La. Ông là vương tôn của Nguyên Thánh Vương và là con trai của _y xan_ Kim Hiến Trinh
**Muang Phuan** (Lao: ເມືອງພວນ, ; Country of Phuan) hay **Xieng Khouang** (, ), người Việt gọi là **Bồn Man** (盆蠻), **Mường Bồn**, **Mường Phăng** hay **Trấn Ninh** (鎮寧), là một quốc gia cổ từng tồn
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Cách mạng Ai Cập năm 1952** (), còn được gọi là **Cách mạng 23 tháng 7**, đánh dấu một giai đoạn biến đổi quan trọng ở Ai Cập, cả về chính trị và kinh tế
thumb|[[Dịch Hân - Vị Cung Thân vương đầu tiên là Thiết mạo tử vương.]] **Hòa Thạc Cung Thân vương** (, ) là một tước vị Thân vương truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Mãn Châu** là một tên gọi ngoại lai cho một số vùng đất lịch sử và địa lý lớn của Trung Quốc và Nga chồng lấn lên nhau ở Đông Bắc Á. Tùy thuộc vào
**Cải cách thời Vương Mãng** là cuộc cải cách kinh tế - xã hội do Vương Mãng – vua duy nhất của triều đại nhà Tân - đề xướng thực hiện trong thời gian cai
**Vương Lệ Khôn** (, sinh ngày 22 tháng 3 năm 1985) tại Ông Ngưu Đặc **Ongniud** (giản thể: 翁牛特旗, bính âm: Wēngniútè Qí), Thành phố Xích Phong, Khu tự trị Nội Mông. Cô là nữ
Sự kiện **Ý xâm chiếm Ai Cập** là một chiến dịch tấn công của Ý nhằm vào các lực lượng Anh, Khối Thịnh vượng chung và Pháp Tự do trong khuôn khổ giai đoạn đầu
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Crown_Prince_Yinreng.jpg|thế=|nhỏ|[[Dận Nhưng (1674 - 1725), thủy tổ của Lý vương phủ]] **Hòa Thạc Lý Thân vương** (, chữ Hán: 和碩理親王), là một tước vị thế tập của triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Vương Lạc Đan** (, sinh ngày 30 tháng 1 năm 1984) là nữ diễn viên, ca sĩ sinh ra tại Nội Mông, Trung Quốc. Vương Lạc Đan gây được tiếng vang lớn nhờ vào vai
nhỏ|[[Muhammad Ali của Ai Cập|Muhammad Ali Pasha]] **Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha** (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập
**A Mẫn** (, chữ Hán: 阿敏; 29 tháng 10 năm 1586 - 28 tháng 12 năm 1640), Ái Tân Giác La, là một trong Tứ đại Bối lặc, và là Hoàng thân có sức ảnh
nhỏ|phải|alt=A gold coin shows paired, profiled busts of a plump man and woman. The man is in front and wears a diadem and drapery. It is inscribed"ΑΔΕΛΦΩΝ".|Head of Ptolemaios II Philadelphus with Arsinoe II behind.
**Miên Mẫn** (chữ Hán: 绵愍 hoặc 綿慜; 6 tháng 3 năm 1797 – 11 tháng 11 năm 1836), Ái Tân Giác La, là một Quận vương nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Kỳ tịch
**Hòa Thạc Lý Thân vương** (chữ Hán: 和碩履親王, ), là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Lý vương phủ là Dận Đào -
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Vương Thẩm Tri** (; 862–30 tháng 12 năm 925), tên tự **Tín Thông** (信通) hay **Tường Khanh** (詳卿), gọi theo thụy hiệu là **Mân Trung Ý Vương**, sau tiếp tục được truy phong là **Mân
**Trần Mẫn** (chữ Hán: 陈敏, ? - 307), tên tự là **Lệnh Thông**, người quận Lư Giang, là tướng lĩnh cuối đời Tây Tấn. Ban đầu ông tham gia trấn áp khởi nghĩa nông dân
nhỏ|phải|Biểu tượng chữ Vạn trong Phật giáo ở Nepal **Các biểu tượng may mắn** (_Lucky symbols_) là một số sự vật, hiện tượng, đồ vật, hình dáng hoặc các chỉ dấu, điềm báo mà khi
**Ái Tân Giác La Ô Lạp Hy Xuân **(sinh năm 1958) là một nhà ngôn ngữ học và nhà sử học Trung Quốc người Mãn Châu nổi tiếng với nhiều tác phẩm nghiên cứu lịch
**Mãn Đô Hỗ** (; 1674 – 1731) là một tông thất của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Mãn Đô Hỗ được sinh ra vào giờ Sửu, ngày 26 tháng 9
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Kính Mẫn** (, ; 1774 – 1852) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị Thiết mạo tử vương. Ông là một trong
nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ **Hòa Thạc Túc Thân vương** (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Ái Tân Giác La** (phiên âm: Aisin Gioro; ) là một gia tộc Mãn Châu cai trị các triều đại Hậu Kim (1616–1636), triều đại nhà Thanh (1636–1912) và Mãn Châu Quốc (1932–1945). Dưới triều
**Ngụy Tương vương** (chữ Hán: 魏襄王, trị vì: 318 TCN – 296 TCN), hay **Ngụy Tương Ai vương**, tên thật là **Ngụy Tự** (魏嗣) hay **Ngụy Hách** (魏赫), là vị vua thứ tư của nước
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Mãn Đạt Hải** (, , 30 tháng 4 năm 1622 – 15 tháng 3 năm 1652 ) còn được phiên âm là **Mãn Đả Hợi** (满打亥) hay **Mãn Đả Hại** (满打害), là một hoàng thân,