✨Túc Thân vương

Túc Thân vương

nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ Hòa Thạc Túc Thân vương (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do được ban ân con cháu tập tước không bị giáng vị, Túc Thân vương trở thành một trong Thiết mạo tử vương.

Khái quát

Thủy tổ của Túc vương phủ là Túc Vũ Thân vương Hào Cách - Hoàng trưởng tử của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. Hào Cách từ nhỏ sống trên sa trường, cũng như các vị Hoàng thúc khác như Đại Thiện, Đa Nhĩ Cổn, Đa Đạc, vì lập được công lao khai phá giang sơn Đại Thanh nên được phong tước.

Ban đầu Hào Cách được phong làm Bối lặc (貝勒), sang thời Sùng Đức thì được ban tước Túc Thân vương (肃亲王), chưởng quản Hộ bộ. Đến thời Thuận Trị, ông cùng Đa Nhĩ Cổn bất hòa, nên cả hai đều bị đoạt tước. Sau tuy được khôi phục, nhưng ông lại bị Đa Nhĩ Cổn hãm hại, bị giam cầm trong ngục cho đến chết. Khi Thuận Trị tự mình chấp chính, ông mới được giải tội, phục vị Túc Thân vương. Đến năm Càn Long thứ 43 (1778), xứng được hưởng Thái Miếu.

Túc vương phủ tổng cộng truyền được 10 đời, trong đó vị thứ hai là Phú Thụ khi tập tước được Thuận Trị Đế sửa lại phong hào thành "Hiển" (显), nên được gọi là Hiển Thân vương (显親王). Đến vị thứ năm là Uẩn Trứ tập tước, Càn Long Đế niệm tình Hào Cách khi sinh thời có công khai quốc, ra chỉ phục sửa hào vị Túc Thân vương (肅親王), từ đó về sau không thay đổi. Túc vương phủ ngoại trừ thủy tổ Hào Cách có nhiều chông gai, bị tội đoạt tước thì tất cả các đời còn lại đều không bị hạch tội mà yên ổn nắm giữ tước vị, là một trong số ít các Vương phủ chưa từng có vị nào bị đoạt tước.

Ý nghĩa phong hiệu

Phong hiệu ["Túc"] của Hào Cách, Mãn văn là 「fafungga」, ý là "Nghiêm khắc", "Nghiêm túc". Về sau, đổi thành phong hiệu ["Hiển"] Mãn văn là 「iletu」, ý là "Hiển hách".

Con trai thứ năm của Hào Cách là Mãnh Nga (猛峩) được phong làm Ôn Quận vương (溫郡王), trở thành một Biệt tông của Túc vương phủ. Mà phong hiệu ["Ôn"] Mãn văn là 「nemgiyen」, ý là "Ôn hòa".

Chi hệ

Hào Cách có tất cả 7 con trai, trong đó chỉ có con trai thứ tư Phú Thụ là đích xuất vì vậy được kế thừa Đại tông. Con trai thứ năm Mãnh Nga do Trắc Phúc tấn sinh ra, được phong làm Ôn Quận vương (溫郡王), trở thành Biệt tông của Túc vương phủ, tuy nhiên về sau bị cách tước, dẫn đến việc mất đi địa vị Biệt tông, không chỉ hậu duệ biến thành Nhàn tản, mà một bộ phận còn mất đi tư cách "Hoàng đái tử" biến thành "Hồng đái tử". Còn lại 5 người con khác:

  • Con trai trưởng Tề Chính Ngạch do thiếp thất sinh ra, hơn nữa còn bị xử tử vào năm Khang Hi thứ 16 (1677), một chi này vô tự bị cắt đứt.
  • Con trai thứ hai Cố Thái do Thứ Phúc tấn sinh ra, ban đầu được phong làm Phụ quốc Tướng quân nhưng về sau bị cách thối, hậu duệ đều trở thành Nhàn tản.
  • Con trai thứ ba Ác Hách Nạp do Thứ Phúc tấn sinh ra, được phong làm Phụ quốc Tướng quân, hậu duệ được thừa tập chức thế quản Tá lĩnh của Tương Bạch kỳ. Hình thành một nhánh Tiểu tông là "Thế quản Tá lĩnh gia"
  • Con trai thứ sáu Tinh Bảo do Thứ Phúc tấn sinh ra, ban đầu được phong làm Phụ quốc Tướng quân nhưng về sau bị cách thối, hậu duệ đều trở thành Nhàn tản.
  • Con trai thứ bảy Thư Thư do thiếp thất sinh ra, bản thân và hậu duệ đều là Nhàn tản.

Địa vị

Túc Thân vương là Vương tước được phong nhờ quân công thời Thanh sơ, hơn nữa lại là một trong 8 Kỳ chủ vào thời kỳ sau này, có được một lượng "thuộc nhân" khổng lồ. Thế nhưng thủy tổ của Túc vương phủ là Hào Cách lại liên tục thăng thăng hàng hàng, về sau còn bị Đa Nhĩ Cổn mưu hại, khiến cho Kỳ phân sở hữu tương đối rời rạc. Điều này cũng trực tiếp dẫn đến việc khi Khang Hi phân phong cho các Hoàng tử, thường xuyên nhắm vào Tương Bạch kỳ của Túc vương phủ.

Một phương diện khác, Túc vương phủ là "Chi trưởng" trong các chi hệ Tông thất hậu duệ của Thái Tông Hoàng Thái Cực, do thói quen coi trọng chi trưởng từ trước vậy nên trong thứ tự tông pháp đời sau cũng rất coi trọng, thường đặt Túc vương phủ ngay sau "Chi trưởng" của Thái Tổ là Lễ Thân vương. Hơn nữa, bởi vì đa số tông chi hậu duệ của Thái Tông vì xuất thân không cao mà phong tước rất thấp, cũng khiến cho địa vị Túc vương phủ trong các hệ Thái Tông hết sức đặc thù.

Kỳ tịch

Túc vương phủ nhập kỳ sớm nhất là vào cuối những năm Thiên Mệnh, Hào Cách được phong nhập Tương Bạch kỳ, chính thức bắt đầu nắm giữ Kỳ phân. Sau khi Hoàng Thái Cực lên ngôi đã cho hoán đổi hai Hoàng kỳ và hai Bạch kỳ, Hào Cách chuyển sang nắm giữ Tương Hoàng kỳ. Năm 1635, sau khi Hoàng Thái Cực lấy lại Chính Lam kỳ từ Mãng Cổ Nhĩ Thái đã đem Chính Lam kỳ và hai Hoàng kỳ trộn lẫn với nhau rồi phân chia một lần nữa, Hào Cách chuyển sang nắm giữ Chính Lam kỳ, thẳng đến khi bị Đa Nhĩ Cổn hãm hại mà chết, Kỳ phân Chính Lam kỳ bị Đa Nhĩ Cổn đoạt đi. Sau khi Đa Nhĩ Cổn qua đời, Thuận Trị Đế đem Tương Bạch kỳ trả lại cho Túc vương phủ. Từ đó, Túc vương phủ luôn nằm trong Tương Bạch kỳ.

Nói cụ thể, Túc vương phủ chiếm hai tộc trong Tương Bạch kỳ là đệ nhất tộc và đệ tam tộc, trong đó Đại tông thuộc đệ tam tộc, Tiểu tông đều thuộc đệ nhất tộc. Ngoài ra chi của Ác Hách Nạp còn sở hữu một Thế quản Tá lĩnh của Tương Bạch kỳ, tức Mãn Châu Tương Bạch kỳ đệ tam Tham lĩnh đệ nhất Tá lĩnh, hình thành nên Tiểu tông "Thế quản Tá lĩnh gia".

Danh sĩ

nhỏ|Túc Trung Thân vương [[Thiện Kỳ]] Trong hậu duệ Túc vương phủ, tương đối nổi danh có thể kể đến ông cháu Kính Trưng (敬徵 hoặc Kính Chinh - 敬征), Mạt đại Đại tông Túc Trung Thân vương Thiện Kỳ và Bảo Thục Phường Quận chúa.

Kinh Trưng là con trai thứ tư của Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích, nhờ Khảo phong mà được phong Bất nhập bát phân Phụ quốc công, nhập sĩ với tư cách Thị vệ. Trong những năm Đạo Quang, từng nhậm Công bộ Thị lang, Nội vụ phủ Đại thần, Binh bộ Thượng thư. Về sau làm đến chức Đô thống, Hiệp bạn Đại học sĩ, sau khi qua đời được truy thụy "Văn Khác", là một đại danh thần thời bấy giờ. Con trai của ông là Hằng Ân (恒恩), xuất thân từ Cử nhân, nổi danh với tài văn học, làm quan đến Tả phó Đô ngự sử. Con trai của Hằng Ân là Thịnh Dục (盛昱), tự Bá Hi (伯羲), là Tiến sĩ năm Quang Tự thứ 3 (1877), nổi tiếng một đời thanh lưu, có nhiều bộ sưu tầm học thuật được biết đến rộng rãi như "Bát kỳ Văn kinh" hay "Tuyết kịch tầm bi lục".

Túc Trung Thân vương Thiện Kỳ, tự Ngải đường (艾堂), hiệu Ngẫu Toại Đình chủ (偶遂亭主), từng đảm nhậm Bộ quân Thống lĩnh, Sùng Văn môn Đốc giam, Thượng thư Dân Chính bộ. Ông là một người đảm nhiệm Nội chính công tích lỗi lạc, có sức ảnh hưởng tương đối lớn trong các phương diện tổng điều tra nhân khẩu, chế độ Cảnh sát, quyền lợi của phụ nữ, được nhận xét là Tài sĩ hiếm có trong số Tông thất thời Thanh mạt. Quan điểm chính trị của ông luôn duy trì Lập hiến, phản đối thoái vị. Sau khi Hoàng đế nhà Thanh thoái vị, ông tích cực liên hệ phía Nhật Bản để khôi phục ngai vàng, hưng khởi hai lần vận động Mãn Mông độc lập. Bỏ qua chính trị, Túc Trung Thân vương là một người cực kì yêu thích hí khúc, trong phủ có nơi để luyện tập biểu diễn, lại có sân khấu, có gánh hát của riêng mình. Không những vậy, ông còn mến chuộng thư họa, thường giao thiệp với giới họa sĩ như Ngô Xương Thạc (吴昌硕), Trần Bán Đình (陈半丁). Ngoài ra ông còn yêu thích đánh cờ vây, còn từng đấu với Cờ thánh của Nhật Bản.

Bảo Thục Phường Quận chúa (葆淑坊郡主) là con gái thứ ba của Túc Lương Thân vương Long Cần, chị gái của Túc Trung Thân vương Thiện Kỳ, vì gả cho Bảo Thành (葆诚) mà xưng hiệu Bảo Thục Phường, thường xưng "Tam Cách cách", là người tiên phong trong việc ủng hộ phụ nữ bình quyền thời Vãn Thanh. Năm 1905, bà nhậm vị trí Chủ bút danh dự của "Bắc Kinh nữ báo", khởi xướng đề cao địa vị phụ nữ, tuyên truyền quyền lợi phụ nữ. Cùng năm, bà trở thành người giảng dạy ở trường Thục phạm Nữ học, đích thân lên lớp giảng dạy. Về sau bà cảm thấy số lượng Nữ học vẫn còn ít, liền tự mở Thục Thận nữ học đường ở nhà mình, đích thân đứng lớp. Ngoài ra, bà còn dùng thân phận Quận chúa của nhà Thanh, công khai diễn thuyết ở nhiều nơi, tuyên truyền nữ học, đồng thời dấn thân vào sự nghiệp phúc lợi, quyên tiền cho nạn dân.

Khoa cử

Túc vương phủ có tất cả 7 Cử nhân, 4 Tiến sĩ và 1 Tiến sĩ Phiên dịch.

Phủ đệ

Túc vương phủ có tổng cổng 4 tòa Phủ đệ, trong đó 1 tòa ở Thẩm Dương, 2 tòa ở Bắc Kinh và 1 tòa ở Lữ Thuận.

Túc vương phủ ở Thẩm Dương là phủ đệ của Túc Vũ Thân vương Hào Cách trước khi nhập quan, nằm ở phụ cận Cố cung Thẩm Dương hiện nay, ngày trước nằm trên cùng một đường thẳng song song với Đại Thanh môn và Tam quan miếu. Phủ này xoay mặt về hướng Nam, mỗi bên nam bắc có một viện tử hai sân. Bước qua cổng chính là 5 gian thiên điện ở mỗi hướng đông tây, đi qua hậu điện vào hậu viện, hai bên đông tây mỗi bên có 3 gian phối điện, phía bắc là hậu điện. Nay đã không còn.

Tòa Túc vương phủ đầu tiên ở Bắc Kinh nằm ở bờ phía đông của cầu Ngự Hà ở Đông Giao Dân Hạng (东交民巷), nơi thường được gọi là Đông Hà duyên. Phía tây là đường lớn, phía tây bắc là cầu Ngự Hà, phía bắc và phía đông là nhà dân, phía đông bắc là lễ đường, phía nam là Chiêm sự phủ. Phủ này cũng xoay mặt về hướng Nam, phân làm 3 phần kiến trung là Đông, Tây và trung tâm, trong đó phần phía Đông là kiến trúc chủ thể. Nơi này có 5 gian cổng chính, 5 gian chính điện, phối điện hai bên đông tây, 5 gian cổng giữa, 7 gian tẩm điện, 7 gian dãy nhà sau. Phía nam của phần trung tâm là nhà bếp, ở giữa là hí đài , phía bắc là hoa viên nhỏ. Toàn bộ phần phía Tây đều là Hoa viên. Năm Quang Tự thứ 26 (1900), tháng 6, Nghĩa Hòa đoàn tấn công Đông Giao Dân Hạng, phủ này trở thành nơi giao chiến giữa hai quân, trở thành một đống đổ nát. Năm Quang Tự thứ 27 (1901), cả vùng Đông Hòa Dân Hạng bị tính vào giới phận của Sứ quán, Túc vương phủ ở Đông Hà duyên trở thành Sứ quán Nhật Bản, binh doanh của Nhật Bản và Ý. Hiện nay là số 2 đường Chính Nghĩa.

Tòa Túc vương phủ thứ hai ở Bắc Kinh ngõ nhỏ Thuyền Bản phía bắc Tân Kiều, nguyên là trạch đệ của Đại học sĩ Bảo Hưng (宝兴), sau lại chuyển cho Vinh Lộc. Sau phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, Vinh Lộc đem phủ này chuyển tặng cho Túc Trung Thân vương, trở thành tòa phủ đệ thứ hai của Túc vương phủ sau khi nhập quan. Phủ này cũng xoay mặt về hướng Nam, có hơn 200 gian phòng, măc dù bố cục không nhỏ nhưng lại không phải quy chế của Vương phủ. Đến năm 1947, phần lớn đều vị Túc vương phủ bán cho giáo đường Thiên Chúa của Pháp, trở thành Thần Học viện của Pháp. Năm 1949 bị sung công.

Tòa Túc vương phủ ở Lữ Thuận là nơi hậu duệ Túc vương phủ ở sau khi rời khỏi Bắc Kinh. Đây vốn là một biệt thự kiểu Nga do một thương nhân người Nga xây dựng vào năm 1900, sau lại trở thành sở hữu của người Nhật Bản. Sau khi Túc Trung Thân vương đến Lữ Thuận, người Nhật Bản kia đã tặng lại biệt thự này để làm Phủ đệ. Sau năm 1945, phủ này bị sử dụng làm văn phòng làm việc, phòng học trường tiểu học, bộ đội doanh phòng,... Kiến trúc đã bị tu sửa, diện mạo đã thay đổi. Năm 2003 nơi này được liệt vào đơn vị bảo hộ văn vật cấp Thành phố.

Viên tẩm

Phần địa của Túc vương phủ ở Bắc Kinh, cơ bản mà nói thì có 7 nơi: Giá Tùng thôn bên ngoài Quảng Cừ môn (an táng Hào Cách, Phú Thụ, Diễn Hoàng và Thiện Kỳ); Lũng Giá trang ở Môn Đầu câu (an táng Đan Trăn); Thành Thọ tự ở Phong Đài (an táng Uẩn Trứ và Bái Sát Lễ); 18 Lý điếm (an táng Vĩnh Tích và Thành Tín), Đạo Khấu thôn (an táng Kính Mẫn), Vạn Tử doanh (an táng Hoa Phong) và Trần gia thôn (an táng Long Cần) ở Triều Dương. Hơn một nửa trong số đó đã bị san bằng, bảo tồn tương đối tốt là "Tân phần" của Hiển Cẩn Thân vương Diễn Hoàng ở Giá Tùng thôn, và "Túc vương phần" của Túc Thận Thân vương Kính Mẫn ở Đạo Khẩu thôn.

Túc Thân vương

Thứ tự thừa kế Túc vương phủ. Số năm lần lượt là năm sinh, năm thừa tước, năm mất; in đậm là khoảng thời gian thụ tước:

Túc Vũ Thân vương Hào Cách (豪格)
1609 - 1636 - 1648

Hiển Ý Thân vương Phú Thụ (富绶)
1643 - 1651 - 1669

Hiển Mật Thân vương Đan Trăn (丹臻)
1665 - 1670 - 1702

Hiển Cẩn Thân vương Diễn Hoàng (衍潢)
1691 - 1702 - 1771

Túc Cần Thân vương Uẩn Trứ (蕴著)
1699 - 1771 - 1778

Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích (永锡)
1753 - 1778 - 1821

Túc Thận Thân vương Kính Mẫn (敬敏)
1773 - 1821 - 1852

Túc Khác Thân vương Hoa Phong (华丰)
1804 - 1852 - 1869

Túc Lương Thân vương Long Cần (隆懃)
1840 - 1870 - 1898

Túc Trung Thân vương Thiện Kỳ (善耆)
1866 - 1898 - 1922

Túc Thân vương Hiến Chương (憲章)
1885 - 1922 - 1945 - 1947

Mãnh Nga chi hệ

Ôn Lương Quận vương Mãnh Nga (猛峩)
1643 - 1657 - 1674

Ôn Ai Quận vương Phật Vĩnh Huệ (佛永惠)
1667 - 1674 - 1678

Bối lặc Duyên Thụ (延绶)
1670 - 1678 - 1698 - 1715

Dĩ cách Phụng ân Phụ quốc công Quỹ Huệ (揆惠)
1687 - 1715 - 1723 - 1734

Bối lặc Duyên Tín (延信)
1673 - 1723 - 1728

Ác Hách Nạp chi hệ

Mãn Châu Tương Bạch kỳ đệ tam Tham lĩnh đệ nhất Tá lĩnh vốn là vào năm Khang Hi thứ 34 (1695) lấy các nhân khẩu dư thừa từ các Tá lĩnh và Bao y thuộc bản Kỳ kết hợp lại mà thành, do Thị lang Tứ Cách Sắc (四格色) quản lý. Tứ Cách Sắc bị trị tội, giao cho Hộ quân Tham lĩnh Mãn Sắc (满色) quản lý. Về sau chức vụ của Mãn Sắc bỏ trống, do Thượng thư Mục Đan quản lý (管理). Mục Đan bị cách chức, do cháu nội của Hào Cách là Phụng quốc Tướng quân Võ Lễ (武礼) quản lý. Năm Ung Chính thứ 4 (1726) chính thức định là "Thế quản Tá lĩnh".

Phả hệ Túc Thân vương

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ **Hòa Thạc Túc Thân vương** (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
nhỏ|276x276px|[[Đạt Lý Trát Nhã, A Lạp Thiện kỳ Trát Tát Khắc Thân vương cuối cùng]] **A Lạp Thiện Ách Lỗ Đặc bộ Trát Tát Khắc Hòa Thạc Thân vương** () là một tước vị Trát
**Hòa Thạc Thân vương** (和硕亲王) gọi tắt **Thân vương** (亲王) là tước vị cao nhất dành cho tông thất nhà Thanh và quý tộc bộ Hồi, đồng thời là tước vị hạng thứ 2 cho
thumb|Ảnh chụp chân dung của [[Kazu-no-Miya Chikako|Hòa Cung Thân Tử Nội Thân vương.]] **Nội Thân vương** (chữ Hán: 内親王), romaji là **Naishinnō** (ないしんのう), **Uchinomiko** (うちのみこ) hoặc **Himemiko** (ひめみこ) là một tước vị dành cho Hoàng
**Frederick Louis, Thân vương xứ Wales**, KG (1 tháng 2 năm 1707 – 31 tháng 3 năm 1751) là Trữ quân của nước Anh từ 1727 cho đến khi qua đời. Ông là con trai
thumb|right|Các quốc gia tại Campania vào năm 1000. **Thân vương quốc Capua** (, tiếng Ý _Principato di Capua_) là một quốc gia của người Lombard ở miền nam nước Ý, thường độc lập trên thực
, Hán-Việt: **Hoà Cung Thân Tử Nội Thân vương**, sinh ngày 3 tháng 7 năm 1846, mất ngày 2 tháng 9 năm 1877; là con gái của Thiên hoàng Nhân Hiếu và là chính thất
**Thân vương quốc Halych** (; ), hay **Thân vương quốc Rus Halych**, là một thân vương quốc Đông Slav thời trung cổ, là một trong những nhà nước khu vực chính yếu thuộc phạm vi
(khuê danh ;sinh ngày 19 tháng 7 năm 1940), là thành viên của Hoàng gia Nhật Bản,và là vợ của Thường Lục cung Thân vương Masahito, con trai của Thiên hoàng Shōwa và là em
**Hòa Thạc Lý Thân vương** (chữ Hán: 和碩履親王, ), là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Lý vương phủ là Dận Đào -
**Bá quốc Waldeck** (sau này được nâng lên thành **Thân vương quốc Waldeck** và **Thân vương quốc Waldeck và Pyrmont**) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh và những người kế
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Crown_Prince_Yinreng.jpg|thế=|nhỏ|[[Dận Nhưng (1674 - 1725), thủy tổ của Lý vương phủ]] **Hòa Thạc Lý Thân vương** (, chữ Hán: 和碩理親王), là một tước vị thế tập của triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Hòa Thạc Thuần Thân vương** (chữ Hán: 和碩淳親王, ) là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Thuần vương phủ là Dận Hựu -
, khuê danh là , còn gọi là Thân vương phi Chichibu là thành viên của Hoàng gia Nhật Bản. Thân Vương phi là vợ của Dật Phụ cung Thân vương Yasuhito, con trai thứ
thumb|Bản đồ nước Ý _khoảng_ năm 1050. **Thân vương quốc Salerno** là một quốc gia của người Lombard ở miền nam nước Ý, tập trung vào thành phố cảng Salerno, thành lập vào năm 851
**Arthur Tudor** (tiếng Tây Ban Nha: _Auturo Tudor_, tiếng Latinh: _Arthurus Tudor_; 20 tháng 9, năm 1486 – 2 tháng 4, năm 1502) là Thân vương xứ Wales, đồng thời còn là Bá tước Chester và
, tên khai sinh là một thành viên của Hoàng gia Nhật Bản, vợ của Thân vương Nobuhito – con trai thứ ba của Thiên hoàng Taishō và Hoàng hậu Teimei, bà cũng là em
**Thân vương quốc Serbia** (tiếng Serbia: Књажество Србија, chuyển tự Knjažestvo Srbija) là một quốc gia tự trị ở vùng Balkan ra đời sau Cách mạng Serbia, tồn tại từ năm 1804 đến năm 1817.[2]
**Thân vương quốc Antioch** (tiếng La Tinh: _Principatus Antiochenus_) là một trong số các nhà nước của thập tự quân trong Cuộc Thập Tự chinh thứ nhất, bao gồm một số phần lãnh thổ của
**Thân vương xứ Wales** (, ), còn gọi là **Công tước xứ Wales** (tại Việt Nam thường dịch sai thành **Hoàng tử/Hoàng thân xứ Wales**), là một tước hiệu theo truyền thống thường được trao
**Sùng An** (; 5 tháng 9 năm 1705 – 14 tháng 10 năm 1733) hay **Trùng An** (冲安), hiệu **Hữu Trúc Chủ nhân** (友竹主人), **Hữu Trúc Đạo Nhân** (友竹道人), thất danh **Hữu Trúc hiên** (友竹轩)
**Thân vương quốc** (; ; ; ), hay **Lãnh địa vương hầu**, là một danh xưng để chỉ một vùng lãnh thổ tương đương công quốc, có chủ quyền hoặc một lãnh địa thân vương,
**William, Thân vương xứ Wales** (William Arthur Philip Louis; sinh vào ngày 21 tháng 6 năm 1982) là một thành viên của Vương thất Anh. William là trưởng nam của Charles III, Quốc vương của
**Thân vương quốc Theodoro** hay **Công quốc Theodoro** (), còn gọi là **Gothia** () hay **Thân vương quốc Theodoro-Mangup**, là một thân vương quốc Hy Lạp tại phần phía nam của Krym, cụ thể là
**Thân vương quốc Lucca và Piombino** (tiếng Ý: _Principato di Lucca e Piombino_) được Hoàng đế Napoleon I lập ra vào tháng 07/1805 từ việc sáp nhập Cộng hòa Lucca với Thân vương quốc Piombino,
**Louis Henri Joseph de Bourbon** (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis
thumb|[[Vương miện (huy hiệu)|Heraldic crown của Thân vương trong Đế chế La Mã Thần thánh]] thumb|Áo choàng và vương miện của Thân vương trong huy hiệu hoàng gia **Thân vương của Đế chế La Mã
**Edward của Westminster**, hay còn gọi là **Edward của Lancaster** (13 tháng 10 năm 1453 – 4 tháng 5 năm 1471) là Thân vương xứ Wales, Công tước xứ Cornwall. Ông là người con đầu
**Thân vương quốc Taranto** là một quốc gia ở miền nam nước Ý được tạo ra vào năm 1088 cho Bohemond I, trưởng nam của Robert Guiscard như một phần của hòa ước giữa ông
**Thân vương quốc Sông Hutt** (tiếng Anh: _Principality of Hutt River_), thường được gọi bằng tên cũ, **Tỉnh Sông Hutt** (_Hutt River Province_), là một vi quốc gia ở Úc. Thân vương quốc tuyên bố
**Thân vương quốc Volyn** là một thân vương quốc ở phần phía tây của Kiev Rus', do vương triều Rurik thành lập vào năm 987 với trung tâm là khu vực Volyn, nằm trên biên
**Thân vương quốc Transylvania** (tiếng Hungary: _Erdélyi Fejedelemség_; tiếng La Tinh: _Principatus Transsilvaniae_; tiếng Đức: _Fürstentum Siebenbürgen_; tiếng Romania: _Principatul Transilvaniei / Principatul Ardealului_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Erdel Voyvodalığı / Transilvanya Prensliği_) là một
**Thân vương quốc Murom** (tiếng Nga: Муромское княжество) là một lãnh địa của người Rus' thời trung cổ có thủ phủ đặt tại thành phố Murom, nay thuộc tỉnh Vladimir, Nga. Murom nằm trong một
**Thân vương quốc Braunschweig-Wolfenbüttel** (tiếng Đức: _Fürstentum Braunschweig-Wolfenbüttel_, tiếng Anh: _Principality of Brunswick-Wolfenbüttel_), là một phân khu của Công quốc Braunschweig-Lüneburg, có lịch sử đặc trưng bởi nhiều cuộc chia rẽ và thống nhất. Nhà
**Xuân Thái** (; 5 tháng 9 năm 1683 - 20 tháng 6 năm 1709) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị Thiết
**Vương tử Kiril của Bulgaria, Thân vương xứ Preslav** (tiếng Bulgaria: Кирил, принц Преславски; tiếng Đức: _Kyrill Heinrich Franz Ludwig Anton Karl Philipp Prinz von Bulgarien_; 17 tháng 11 năm 1895 – 1 tháng 2
, thông gọi , là một vị Hoàng hậu của Nhật Bản. Bà là phối ngẫu của anh em họ mình là Thiên hoàng Go-Reizei, và là con gái lớn của Thiên hoàng Go-Ichijō với
**Thường Ninh** (, chữ Hán: 常寧; 8 tháng 12 năm 1657 – 20 tháng 7 năm 1703) là hoàng tử thứ 5 của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế. ## Tiểu sử Thường Ninh sinh
**Diego Félix của Áo, Thân vương xứ Asturias** và **Thái tử Diego của Bồ Đào Nha** (15 tháng 8 năm 1575 – 21 tháng 11 năm 1582) là người con thứ 5 của vua Felipe
**Thân vương quốc Halberstadt** (tiếng Đức: _Fürstentum Halberstadt_; tiếng Anh: _Principality of Halberstadt_) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh do liên minh cá nhân Brandenburg-Phổ của Nhà Hohenzollern cai trị.
là con gái duy nhất của Thiên hoàng Naruhito và Hoàng hậu Masako, cháu gái nội lớn nhất của Thượng hoàng Akihito và Thượng Hoàng hậu Michiko. Aiko hiện là người đứng đầu và là
là con gái thứ hai của Thiên hoàng Shōwa và vợ là Hoàng hậu Kōjun. ## Ra đời Vào ngày 10 tháng 9 năm 1927, người con thứ hai của Hoàng đế và Hoàng hậu
là tước vị cao nhất mà Hoàng đế nhà Thanh phong cho các Tông thất và Ngoại phiên. Trong Tông thất, chỉ có các Hoàng tử hoặc anh em trai của Hoàng đế mới được
, tục danh **Viên Tánh**, là vị Hoàng tộc Nhật Bản sau thời đại Bình An (Heian) và là nhà sư của Thiên Đài Tông, cha mẹ là Thiên hoàng Toba cùng Hoàng hậu Ji
thumb|[[Đa Nhĩ Cổn - thủy tổ của Duệ vương phủ.]] **Hòa Thạc Duệ Thân vương** (chữ Hán: 和碩睿親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
nhỏ|Tái Huân - con trai thứ hai của Trang Hậu Thân vương [[Dịch Nhân]] **Hòa Thạc Trang Thân vương** (chữ Hán: 和碩莊親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong
thumb|[[Túc Thuận - một trong Cố mệnh Bát đại thần, là một thành viên của Trịnh vương phủ.]] **Hòa Thạc Trịnh Thân vương** (chữ Hán: 和碩鄭親王; , ), là tước vị Thân vương thế tập
nhỏ|315x315px|Di Đoan Thân vương [[Tái Đôn - Di Thân vương đời thứ 8|thế=]] phải|nhỏ|308x308px|Phổ Tĩnh **Hòa Thạc Di Thân vương** (Chữ Hán: 和碩怡親王, ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh
nhỏ|Lễ Liệt Thân vương [[Đại Thiện]] **Hòa Thạc Lễ Thân vương** (chữ Hán:和碩禮親王, ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do được ban ân con
nhỏ|Đa Đạc - thủy tổ của Dự vương phủ **Hoà Thạc Dự Thân vương** (chữ Hán: 和碩豫親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do