Thân vương quốc Antioch (tiếng La Tinh: Principatus Antiochenus) là một trong số các nhà nước của thập tự quân trong Cuộc Thập Tự chinh thứ nhất, bao gồm một số phần lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ và Syria ngày nay. Thân vương quốc nhỏ hơn nhiều so với Bá quốc Edessa lẫn Vương quốc Jerusalem kế bên. Thân vương quốc này mở rộng xung quanh rìa Tây Bắc giáp Địa Trung Hải, tiếp giáp biên giới với Bá quốc Tripoli ở phía Nam, Edessa ở phía Đông, và Đế quốc Byzantine hoặc Vương quốc Kilikia ở phía Tây Bắc, tùy theo thời điểm.
Thân vương quốc có dân số xấp xỉ 20.000 người vào thế kỉ thứ XII, đa phần là người Armenia và người Hy Lạp theo Chính thống giáo, cộng thêm một số ít người Hồi giáo ở ngoại vi thành phố. Đa số thập tự quân định cư ở đây có gốc gác là người Norman, nhất là từ Vương quốc Sicilia ở phía Nam Bán đảo Ý, cũng chính là những người cai trị đầu tiên của Thân vương quốc này, những người mà đã tự bổ nhiệm vây cánh bằng chính tâm phúc của họ. Ít có cư dân nào ngoài Thập tự quân theo Công giáo La Mã, mặc dù vậy thành phố lại được chuyển thành Tòa Thượng Phụ La-tinh, được thành lập vào năm 1100. Tòa thượng phụ này sẽ tồn tại với tư cách là tòa thượng phụ sau các cuộc Thập tự chinh, cho đến khi nó bị bãi bỏ vào năm 1964.
Lịch sử
thumb|upright|[[Vây hãm Antioch, từ một bức tranh thu nhỏ thời trung cổ.]]
Thành phố Antioch từng là một thành trì lớn của Byzantine trong khu vực dưới sự kiểm soát của một doux (công tước) trước khi rơi vào tay Seljuk Turk vào năm 1084. Do đó, đây là một trong những thành phố mà quân đội của cuộc Thập tự chinh đầu tiên hướng đến trên đường đến Jerusalem. Trong khi Baldwin xứ Boulogne tiến về phía Đông từ Tiểu Á để thành lập Bá quốc Edessa, đội quân chính của cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất tiếp tục tiến về phía Nam để bao vây Antioch vào cuối tháng 10 năm 1097. Đoàn quân bao gồm nhiều thủ lĩnh khác nhau đã thề trả lại tất cả lãnh thổ thuộc về Đế quốc Byzantine, trong đoàn quân này cũng có một đội quân Byzantine dưới sự chỉ huy của tướng quân Tatikios. Với hơn bốn trăm tòa tháp, hệ thống phòng thủ của thành phố rất đáng gờm. Cuộc bao vây kéo dài suốt mùa đông, với nhiều tổn thất trong lực lượng Thập tự chinh, những người thường bị buộc phải ăn thịt ngựa của họ, hoặc, như truyền thuyết kể lại, thi thể của tất cả những người theo đạo Cơ đốc không sống sót. Đã có một số nỗ lực của các thủ lĩnh Thổ Nhĩ Kỳ lân cận để giải vây cho thành phố, nhưng những người này đã bị đánh trả, chẳng hạn như trong Trận hồ Antioch dưới sự lãnh đạo quân sự của Bohemond xứ Taranto.
Vào tháng 5 năm 1098, một lực lượng giải vây khác dưới quyền Kerbogha xứ Mosul đã tiếp cận thành phố và do đó, quân thập tự chinh phải thực hiện những hành động nhanh chống hơn nữa để chiếm được Antioch. Bohemond đã thuyết phục được một người lính gác ở một trong những tòa tháp, một người Armenia và từng theo đạo Cơ đốc tên là Firouz, để quân Thập tự chinh tiến vào thành phố vào ngày 2 tháng 6 năm 1098. Chỉ bốn ngày sau, một đội quân Hồi giáo từ Mosul, do Kerbogha chỉ huy, đã đến để bao vây quân Thập tự chinh. Alexios I Komnenos, Hoàng đế Byzantine, đang trên đường đến hỗ trợ quân Thập tự chinh; nhưng khi nghe tin rằng thành phố đã rơi vào tay người Hồi giáo, Alexios đã quay trở lại.
Thập tự quân đã đứng vững trước cuộc bao vây, với sự giúp đỡ của một nhà thần bí tên là Peter Bartholomew. Peter tuyên bố rằng ông đã được Thánh Andrew đến thăm, người đã nói với ông rằng Holy Lance (Mũi giáo Thánh), là đầu cây thương đã đâm vào sườn của Chúa Kitô khi ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, nằm trong thành phố. Các cuộc khai quật đã diễn ra trong nhà thờ St. Peter và cây thương được chính Peter phát hiện. Mặc dù có thể chính Peter đã dấu nó ở đó (Adhemar xứ Le Puy, đại diện hợp pháp của Giáo hoàng đã nghi ngờ điều này), nhưng nó đã nâng cao tinh thần của quân Thập tự chinh cũng như của người Armenia và Hy Lạp địa phương. Với thánh tích đứng đầu quân đội, Bohemond hành quân ra ngoài để gặp lực lượng Hồi giáo đang bao vây, lực lượng này đã bị đánh bại trong trận Antioch. Theo Thập tự quân, một đội quân gồm các vị thánh đã xuất hiện để giúp đỡ họ trên chiến trường.
Sau chiến thắng này, một cuộc tranh cãi kéo dài về việc ai sẽ kiểm soát thành phố đã diễn ra. Bohemond tuyên bố rằng lời thề với Alexios đã bị vô hiệu do Alexios không mang quân và lương thực đến viện trợ cho thập tự quân. Ông đã bị Bá tước Raymond xứ Toulouse chống lại, người cho rằng thành phố nên được trả lại cho Alexios và người sau này đã thành lập Bá quốc Tripoli. Bohemond và những người theo người Norman gốc Ý của ông cuối cùng đã chiến thắng, đặc biệt là nhờ cái chết của Adhemar xứ Le Puy, người từng là thủ lĩnh tinh thần của cuộc thập tự chinh và đã quyết tâm hợp tác với người Byzantine. Bohemond đã là Thân vương (lãnh chúa đồng minh) của Taranto ở Ý. Ông ấy mong muốn tiếp tục độc lập như vậy trong lãnh địa mới của mình, vì vậy ông ấy đã không cố gắng nhận tước hiệu Công tước từ Hoàng đế Byzantine, cũng như bất kỳ tước hiệu nào khác có nghĩa vụ phong kiến áp đặt.
Lịch sử ban đầu
Antioch và Đế chế Byzantine
Quan hệ với các khu định cư Latinh khác ở phía Đông
Thân vương quốc sụp đổ
Cư dân không phải người La Tinh
Các chư hầu của Antioch
Các quan chức của Antioch
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thân vương quốc Antioch** (tiếng La Tinh: _Principatus Antiochenus_) là một trong số các nhà nước của thập tự quân trong Cuộc Thập Tự chinh thứ nhất, bao gồm một số phần lãnh thổ của
**Thân vương quốc Taranto** là một quốc gia ở miền nam nước Ý được tạo ra vào năm 1088 cho Bohemond I, trưởng nam của Robert Guiscard như một phần của hòa ước giữa ông
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Vương quốc Gruzia** (tiếng Gruzia: _ საქართველოს სამეფო_), hay còn được biết đến với cái tên **Đế quốc Gruzia**, là một chế độ quân chủ thời kỳ Trung cổ nổi lên vào khoảng 1008. Thời
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Công quốc Amalfi** () hoặc **Cộng hòa Amalfi** () là một nhà nước độc lập _de facto_ tập trung vào thành phố Amalfi ở miền nam nước Ý trong thế kỷ thứ 10 và 11.
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Bá quốc Tripoli** (, ) là lãnh địa tự trị sau chót xuất hiện như hệ quả tích cực của phong trào Thập tự chinh. Tiểu quốc này trên danh nghĩa là thần thuộc Đế
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Đế quốc Tân-Assyria** là một đế quốc của người Lưỡng Hà, phát triển trong giai đoạn lịch sử bắt đầu từ 934 TCN và kết thúc năm 609 TCN. Trong suốt thời kỳ này, Assyria
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Gilbert và Sullivan** (, viết tắt **G&S** trong ngữ cảnh) là bộ đôi sân khấu thời đại Victoria gồm nhà viết kịch W. S. Gilbert (1836–1911) và nhà soạn nhạc Arthur Sullivan (1842–1900). Trong giai
**Trận Antioch (1098)** là một cuộc giao tranh quân sự diễn ra giữa các lực lượng Cơ đốc giáo trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất và một liên minh Hồi giáo do Kerbogha lãnh
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Cuộc bao vây Nicaea** diễn ra từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 19 tháng 6 năm 1097, là một trận chiến trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. ## Bối cảnh Thành Nicaea (Iznik),
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Louis VII của Pháp** (biệt danh bằng tiếng Pháp: _Louis le Jeune_; tạm dịch _Louis Con_ hay _Louis Trẻ_ 1120 – 18 tháng 9 năm 1180) là vua Pháp, con trai và người kế tục
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
thumb|Tấm tượng quái vật bảo vệ mình bò có cánh, đầu người tại cung điện của [[Sargon II.]] **Assyria** là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước
**Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba** (1190-1192) còn được gọi là **Cuộc thập tự chinh của các nhà vua**, là nỗ lực của người châu Âu nhằm chiếm lại Đất Thánh vốn đã rơi
**Jovianus** (tiếng Latin: _Augustus Flavius Jovianus_; 331-17 tháng 2 năm 364), là Hoàng đế La Mã từ năm 363-364. Sau cái chết của hoàng đế Julianus trong chiến dịch chống lại người Ba Tư, Jovianus
**Phaolô thành Tarsus** (còn gọi là **Sao-lơ hoặc Saolê** theo chữ **Saul**, **Paulus**, **Thánh Phaolô Tông đồ**, **Thánh Phaolô** hoặc **Sứ đồ Phaolô**, **Thánh Bảo-lộc** hay **Sao-lộc** (; ; ; khoảng 5 CN – khoảng
**Ioannes II Komnenos** (, _Iōannēs II Komnēnos_; 13 tháng 9, 1087 – 8 tháng 4, 1143) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1118 đến năm 1143. Còn gọi là "Ioannes Hiền minh" hay "Ioannes Nhân
**Ṣalāḥ ad-Dīn Yūsuf ibn Ayyūb** (, Ṣalāḥ ad-Dīn Yūsuf ibn Ayyūb, Tiếng Kurd: سهلاحهدین ئهیوبی, Selah'edînê Eyubî) (1137/1138 – 4 tháng 3 năm 1193), tên thường gọi trong các tài liệu phương Tây là **Saladin**,
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus** hay còn gọi là **Trajan** (18 tháng 9 năm 53 – 9 tháng 8 năm 117), là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 98
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
nhỏ|upright=1.3|Hai [[Mái vòm của Nhà thờ Mộ Thánh, Mái vòm bên trên Rotunda ở trên nóc có lá cờ Thập Tự Thánh Georges và mái vòm nhỏ hơn ở phía trên Catholicon, Tháp giáo đường
**Syria** ( hoặc ), quốc hiệu là **Cộng hoà Ả Rập Syria** () là một quốc gia ở Tây Á, giáp với Liban và Địa Trung Hải ở phía tây, Thổ Nhĩ Kỳ ở phía
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Rollo** (Nam. Tiếng Norman: _Rou_; tiếng Bắc Âu cổ: _Hrólfr_; tiếng Pháp: _Rollon_. Sinh năm 846 hoặc 860, mất năm 928/930 hoặc 932/933 sau công nguyên), một người Viking, một chiến binh, Kẻ chinh phục
thumb|Một quý tộc Mamluk từ [[Aleppo]] thumb|Một chiến binh Mamluk tại Ai Cập. **Mamluk** (tiếng Ả Rập: _mamlūk_ (số ít), _mamālīk_ (số nhiều), nghĩa là "tài sản" hay "nô lệ" của một vị vua; cũng
nhỏ|Đoạn mô tả về cuộc [[Vây hãm Chandax|vây hãm thành Chandax của Phokas, mùa đông năm 960-961]] **Nikephoros II Phokas** (, _Nikēphoros II Phōkas_) (khoảng 912 – 10–11 tháng 12, 969) là Hoàng đế Đông
nhỏ|200x200px|Cây sự sống trên thiên đường - Hình minh họa thế kỷ 15 **Cây sự sống** (tiếng Hebrew: עֵץ הַחַיִּים - _Ec ha-Chajim_) là cây trong vườn địa đàng theo Kinh Thánh, sinh trái ăn
**Flavius Odoacer** (433 – 493), còn được biết đến với tên gọi **Flavius Odovacer** hay **Odovacar** (, ## Tiểu sử ### Nguồn gốc xuất thân Nguồn gốc xuất thân của Odoacer không rõ. Ông có
**Godefroy xứ Bouillon** (; ; , ; 1060 – 18 tháng 7 năm 1100) là một nhà cai trị và quý tộc người Pháp, ông là lãnh đạo lỗi lạc của cuộc Thập tự chinh
**Trận Yarmouk** (, còn được viết là _Yarmuk_, _Yarmuq_, hay trong tiếng Hy Lạp là _Hieromyax_, Ἱερομύαξ, hoặc _Iermouchas_, Ιερμουχάς) là một trận đánh lớn giữa quân đội Hồi giáo Rashidun với quân đội của
**Cleopatra Selene II** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Κλεοπάτρα Σελήνη; cuối năm 40 trước Công nguyên - ngày 6 tháng 12 trước Công nguyên), còn được gọi là **Cleopatra VIII của Ai Cập** hoặc **Cleopatra