✨Traianus

Traianus

Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus hay còn gọi là Trajan (18 tháng 9 năm 53 – 9 tháng 8 năm 117), là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 98 tới khi qua đời năm 117. Sinh ra trong một gia đình không có nguồn gốc quý tộc tại tỉnh Hispania Baetica (nay là Tây Ban Nha), ông được giáo dưỡng như một người lính và có tài điều binh khiển tướng. Traianus làm võ quan (cũng giống như cha ông năm xưa

Trên cương vị người quản lý dân sự, Hoàng đế Traianus được ghi nhớ bởi những chương trình xây dựng quy mô, làm biến đổi hẳn kinh thành La Mã và để lại những công trình lưu truyền hậu thế như Cột trụ Traianus, Chợ Traianus và Quảng trường Traianus. Tuy nhiên, ông là một vị Hoàng đế có một đất nước bành trướng và gặt hái được những chiến thắng rực rỡ nhất. Vào năm 101, ông thân chinh điều động binh mã phạt Vương quốc Dacia để chống nhau với vua Decebalus, đánh tan nát quân Dacia trong trận đánh khốc liệt taị Tapae lần thứ hai vào năm 102, và hoàn toàn chinh phục nước Dacia vào năm 106. Vào năm 107, Traianus thân hành kéo đại binh tiến xa hơn về phía Đông và đánh chiếm nước Nabatea, thành lập tỉnh Arabia Petraea dù rằng nó chẳng tồn tại được bao lâu. Sau đó ông trị quốc tương đối thái bình thịnh trị, và rồi ông lại rời khỏi kinh đô La Mã mà khởi binh lần cuối cùng vào năm 113 để chinh phạt Đế quốc Parthia, tiến tới tận thành phố Susa vào năm 116, bành trướng Đế quốc La Mã tới cực điểm. Ông là vị Hoàng đế La Mã duy nhất sánh ngang với Alexandros Đại Đế trong việc hành binh tới vịnh Ba Tư. Cũng trong thế kỷ thứ XVIII, các danh sĩ thường lấy hình ảnh đáng kính của Traianus để tôn vinh các bậc anh quân của trào lưu Khai sáng. Thời nay, danh thơm hiển hách của ông vẫn không hề mờ phai.

Thời tuổi trẻ và lên tới đỉnh cao quyền lực

Marcus Ulpius Nerva Traianus là con trai của Marcia và Marcus Ulpius Traianus, một Nghị viên có thế lực trong Viện nguyên lão La Mã và là một vị tướng xuất thân từ dòng họ Ulpius. Gia đình ông chuyển đến sinh sống tại Hispania (bán đảo Iberia, bao gồm lãnh thổ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha bây giờ), tại tỉnh Hispania Baetica ở phần đất nay là tỉnh Andalusia (nay thuộc Tây Ban Nha), một tỉnh đã hoàn toàn La Mã hóa và được gọi là nam Hispania. Traianus cũng chỉ là một trong số rất nhiều người nổi tiếng thuộc dòng họ Ulpius, dòng họ này tồn tại rất lâu ngay cả sau khi ông đã qua đời. Chị cả của ông là Ulpia Marciana và cháu gái là Salonina Matidia.

Ông sinh ngày 18 tháng 9 năm 53, tại thành phố Italica. Khi còn trẻ, ông thăng tiến bằng con đường binh nghiệp, phục vụ tại những vùng đất bất ổn nhất tại các miền biên viễn của đế quốc. Trong thời kỳ 76–77, cha của ông làm quan Tổng trấn Syria (Legatus pro praetore Syriae), bản thân ông nắm chức vụ Hành chính quan chiến đoàn - Tribunus legionis. Vào năm 76, chính tại quê hương của ông, người cháu ông là Publius Aelius Hadrianus chào đời. Khi cha của Hadrianus mất vào năm 86, Traianus trở thành một trong những người giáo dưỡng đứa bé (chính Hadrianus là Hoàng đế kế tục của ông sau này). Theo cuốn Lịch sử Augusta - Biên sử các Hoàng đế La Mã, chính Hadrianus là người mang tin cho Traianus về việc ông được chọn làm con nuôi Hoàng gia. Sau khi Hoàng đế Nerva mất ngày 27 tháng 1 năm 98, vào tháng 2 năm ấy Hadrianus đưa hung tin đến cho Traianus, khi đó thuộc địa Agrippina ở miền Hạ Germania. vốn rất được lòng người, kế vị một cách êm thấm. Trong Mùa Xuân, vị tân Hoàng đế đi thị sát ở vùng biên cương sông Danube. Trước thời ông, Optimus chỉ là cái tên mà nhân dân La Mã đặt cho thần Jupiter để tôn vinh công đức của thần, mà giờ đây Traianus với Đế hiệu này đã được sánh vai với Jupiter. Ông cũng vời các nhà hiền triết về triều để góp phần dựng nước. Với ông, luật pháp La Mã trở nên nhân văn hơn. Epictetus - một nhà hiền triết trứ danh đời Hoàng đế Nero, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự đức độ của Hoàng đế Traianus.

Vị đại anh quân này cũng là người đồng tính luyến ái. Tuy người ta thường coi đây chẳng qua là tin đồn nhảm mà thôi, bằng chứng về chuyện này có đầy, như nhà sử học Julian Bennett có đề cập. Julianus Nhà hiền triết - vị Hoàng đế Đa thần giáo cuối cùng Đế quốc La Mã, có viết rằng khi Traianus đang "lên cơm han trai" thần Zeus phải cẩn thận với chàng Ganymedes tuyệt đẹp của thần. Người ta kể rằng Traianus có quan hệ đồng tính với Hadrianus và các lính lệ của Hoàng gia, thậm chí có thời ông còn yêu chàng diễn viên Pylades và vũ công Apolaustus. Và nếu chúng ta có thể tin vào giai thoại, trước kia tiên hoàng Nerva và Licinius Sura đều đã nằm giường với ông. Là một người chiến binh giản dị và khoan dung, ông dễ thiện cảm đến mức mà theo nhà sử học Cassius Dio: "Ngài luôn được ái mộ và không ai căm ghét Ngài cả ngoại trừ các kẻ thù của Ngài". Tuy rất mê những chàng trai trẻ và nghiện rượu, ông vẫn luôn giữ nề nếp La Mã xưa. Theo ghi nhận của Cassius Dio:

Chinh phạt Dacia

Không lâu sau khi lên ngôi Hoàng đế, Marcus Ulpius Nerva Traianus đã bắt đầu tiến lên trên con đường vinh quang quân sự.

Trong chiến dịch phạt Dacia lần đầu tiên vào khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 năm 101, Hoàng đế Traianus thân chinh điều động binh mã vựơt qua cho bờ phía Bắc của sông Danube và đánh tan nát quân Dacia ở gần hoặc trong một con đèo (Carpati) tên gọi là Tapae (xin xem bài Trận Tapae lần thứ hai). Đây là một thất bại thảm hại của Decebalus. Tuy nhiên, các chiến binh tinh nhuệ của Traianus phải chịu nhiều thiệt hại trong trận đánh kịch liệt này, do đó ông không thể tấn công thành Sarmizegetuza để kết liễu luôn kẻ địch, mà ông phải đóng quân tại đó trong hôn một năm để triệu tập và động viên tinh thần, sức khỏe của ba quân.

Vua Decebalus là một kẻ thù đáng gờm của Traianus, do ông ta vẫn còn cố chấp sau khi thua trận. sau khi được ông để lại làm vua chư hầu thì Decebalus lại lật lọng, vào năm 105 ông ta hô hào các bộ lạc ở phía Bắc sông Danube tạo phản chống Triều đình La Mã, nhân cơ hội đó ông ta sẽ công kích vào Đế quốc.

Vị Hoàng đế truyền lệnh cho Apollodorus người xứ Damascus thiết kế và gầy dựng nên một cây cầu lớn bắc qua sông Danube, sau đó ông lại thân chinh đốc suất binh mã phạt quân Dacia và chiếm lĩnh được một phần của Vương quốc Dacia vào năm 106. Sau một cuộc chiến đấu ác liệt (xem thêm Chiến tranh Dacia lần thứ hai), đại binh của ông phá nát bấy nát bét kinh đô Sarmizegetusa Regia của người Dacia. Decebalus bỏ chạy, nhưng để không rơi vào tay của lực lượng Kỵ binh La Mã, ông ta đã tự sát, tướng sĩ La Mã liền chặt đầu của ông ta dâng thủ cấp lên cho Hoàng đế Traianus bấy giờ đang ngự tại "Ranisstorum" - một địa điểm không thể xác định được ở nước Dacia thời đó. Đầu của Decebalus bị người La Mã bêu ở kinh thành La Mã, trên các bậc thang dẫn đến đồi Capitol. Đám hộ vệ của Decebalus (trong số đó có hai bé trai) cũng bị quân sĩ của Traianus tóm gọn. Sau chiến thắng, Hoàng đế Traianus cũng lệnh cho gầy dựng một thành phố mới là Colonia Ulpia Traiana Augusta Dacica Sarmizegetusa, trên một địa điểm khác so với cố đô của người Dacia, mặc dù có cùng tên gọi đầy đủ là Sarmizegetusa. Với chiến thắng của ông, mở ra gần 200 năm đô hộ của người La Mã ờ vùng România.

Bành trướng về phương Đông

Cùng thời gian, vị vua cuối cùng được người La Mã bảo trợ là Rabbel II Soter của Nabatea, qua đời. Sự kiện này có lẽ đã thúc đẩy Hoàng đế Traianus tiến hành sáp nhập Nabatea, mặc dù lý do cụ thể của việc sáp nhập này không được biết rõ, cũng như phương thức tiến hành sáp nhập. Một số hình khắc cho thấy có lẽ một chiến dịch quân sự, với lực lượng từ các xứ Syria và Ai Cập, đã được tiến hành. Điều chắc chắn là tới năm 107, các binh đoàn Lê dương La Mã đã đồn trú tại các khu vực quanh Petra và Bostra, như được chỉ ra trong các cuộn giấy papyrus tìm thấy ở Ai Cập. Đế quốc La Mã mở rộng thêm tỉnh Arabia Petraea, tức tỉnh Ả Rập (nay là phần phía Nam Jordan và Tây Bắc Ả Rập Xê-út), được Hoàng đế công nhận vào năm 107. Những bi văn và tài liệu ở tỉnh đã cho thấy sự kiện này.

Mở rộng Đế chế đến cực điểm

Biên giới đế quốc La Mã dưới thời Trajan ([[117)]]

Vào năm 113, ông tiến hành chiến dịch cuối cùng để phản ứng lại việc Đế quốc Parthia tôn một nhân vật đối lập với người La Mã lên làm vua nước Armenia, một vương quốc bị cả hai đế quốc áp đặt bá quyền kể từ thời Hoàng đế Nero. Đây sẽ là một thử thách hết sức lớn lao đối với ông và ba quân. Tuy các võ tướng của ông đều khuyến khích ông xuất chinh do họ muốn có được vinh hiển cho riêng mình, Publius Aelius Hadrianus phản đối, bởi lẽ Hoàng đế đã hao tổn nguồn nhân lực của đất nước trong cuộc chinh phạt Dacia do đó không nên đẩy đất nước một lần nữa vào cảnh binh đao, và lại đất Parthia quá xa để có thể phòng thủ. Nhưng, Hoàng đế Traianus tổ chức hành binh đánh Armenia, lật đổ tân vương nước này và sáp nhập luôn cả Armenia vào lãnh thổ đất nước. Tiếp đó, ông thân hành tiến quân về phương Nam, đánh thẳng vào chính quốc Parthia, hạ các thành phố lớn Babylon, Seleucia và cuối cùng là kinh đô Ctesiphon năm 116. Ngay trước khi ca khúc khải hoàn kéo đoàn binh thắng trận vào thành Ctesiphon, ông đã được Viện Nguyên lão La Mã đề cử làm Parthicus, tức "Nhà chinh phạt của giặc Parthia". Ông tiếp tục nam tiến về phía vịnh Ba Tư, rồi tuyên bố xứ Babylon là một tỉnh mới của Đế chế. Khi đến thành phố Basra, ông đưa mắt nhìn ra bờ biển vịnh Ba Tư, thì thấy một con thuyền buôn đang căng buồm đến Ấn Độ, ông công khai than phiền rằng tuổi tác mình giờ đây đã gần đất xa trời, vì thế không thể tiếp bước Alexandros Đại đế để tiến đánh Ấn Độ được. Nhưng ông không dừng lại ở đó, cuối năm 116, ông đánh chiếm thành phố tráng lệ Susa. Ông cho đi đày vua Parthia là Osroes I và đưa người cháu của Osroes I là Parthamaspates lên làm vua chư hầu xứ Parthia. Theo sử sách, đích thân Hoàng đế Traianus tấn phong Vương miện cho Parthamaspates. Đế quốc La Mã sẽ không bao giờ có thể tiến chiếm xa hơn nữa về phía đông kể từ đó. Sau chiến thắng vang dội, ông lui binh về phương Bắc đã giữ vững những tỉnh mà ông mới lấy được ở các vùng Armenia và Lưỡng Hà.

Tượng bán thân Trajan, [[Glyptothek, Munich.]] Tới lúc đó, sức khỏe của Hoàng đế Traianus bắt đầu suy sụp. Thành lũy của thành phố Hatra, nằm trên bờ sông Tigris ở phía sau ông, tiếp tục kháng cự lại các đợt công kích liên tục của quân La Mã. Thành Hatra có vị trí địa lý quan trọng vì thế binh tướng của ông luôn phải cướp phá pháo đài này. Đích thân ông có mặt trong cuộc vây hãm, và có lẽ bị cảm nắng trong cái nắng gay gắt. Giống như Marcus Antonius khi xưa, ông nhanh chóng tung hoành Á châu nhưng quên củng cố những gì ông chiếm lĩnh được. Lúc đến Antioch, ông hay tin tên phế đế Parthia là Osroes I đang kéo quân về để đoạt lại ngôi báu. Song, dân chúng toàn bộ các tỉnh mà ông chinh phạt đều phất cờ bạo động: người Do Thái tại Ai Cập, Lưỡng Hà và Cyrene, không những thế, phong trào nổi loạn này còn lan sang Libya, Mauretania và Anh. Không những thế, chính do thật quá ư là năng động tại phương Tây cũng như tại phương Đông nóng nực, vị Hoàng đế lâm trọng bệnh và phải rút đại binh về kinh thành La Mã. Hoàng đế còn chỉ định Quietus làm quan Tổng tài trong năm sau — khi ông bị tân Hoàng đế Hadrianus hành quyết, vì ông luôn ủng hộ chính sách bành trướng của Traianus. Người ta kể rằng ông đã chọn Hadrianus làm con nuôi để Hadrianus được nối dõi Vương triều, và sau khi hay tin ông về cõi vĩnh hằng thì đạo quân La Mã ở phương Đông đã tấn phong Hadrianus lên làm tân Hoàng đế. Điều này thể hiện sự tôn trọng của ông đối với quy định quân chủ truyền hiền mà tiên đế Nerva ban bố. Tuy nhiên, có tin đồn cho rằng Hoàng hậu Pompeia Plotina đã che giấu tin Traianus băng hà và cho người Vệ binh Pháp quan là Attianus đóng giả làm Traianus, với giọng nói nghe giống ông. Điều này giúp bà được làm vợ của Hadrianus và được công bố Hadrianus làm Hoàng đế kế tục trước khi thông báo về sự ra đi vĩnh viễn của tiên đế Traianus. Theo Cassius Dio, sở dĩ có chuyện ấy là do Traianus không có con đồng thời lúc ông phải lăn xả ngoài xa trường thì Hoàng hậu yêu Hadrianus. Tuy nhiên, những cáo buộc này có lẽ là do sự thù địch của truyền thống chép sử của Nghị viện La Mã đối với Hadrianus. Sự tín nhiệm của ông đối với Hadrianus đã thể hiện qua việc ông phong Hadrianus làm chỉ huy của đạo quân Syria khi Hoàng đế ca khúc khải hoàn quay về kinh đô La Mã vào năm 117. Khi Hoàng hậu Plotina cùng các cận thần mang thi hài của Traianus tới Seleuci, miền Pieria, Hoàng đế Hadrianus nhìn lại tiên đế lần cuối và cho người khám nghiệm tử thi ông. Tro của ông được bỏ vào một cái bình vàng và chôn cất dưới cây Cột trụ Traianus, là đài tưởng niệm những chiến công hiển hách của ông. Viện Nguyên lão còn tổ chức lễ khải hoàn cùng với nhiều trò chơi lớn, để ăn mừng chiến thắng của Hoàng đế Traianus trước quân Parthia, như họ đã hứa với ông ít lâu trước khi ông về cõi vĩnh hằng. Ngay sau khi lên nối ngôi Hoàng đế, Hadrianus trả lại vùng Lưỡng Hà cho người Parthia. Tuy nhiên, tất cả các vùng đất khác mà Trajan đã chinh phục đều được giữ lại.

Vinh danh

[[Eugène Delacroix. Công lý của Trajan.]]

Sinh thời, Hoàng đế Traianus được tôn vinh là Optimus Princeps, tức bậc đại minh quân không ai sánh bằng. Sau khi ông về cõi vĩnh hằng, người ta kể rằng không có một vị Hoàng đế nào xuất sắc hơn được ông, hay được lòng dân hơn ông. Ông là vị Hoàng đế có tài dụng binh như thần, không bao giờ ngưng nghỉ chiến đấu và có lòng vô cùng dũng cảm theo lối triết học Khắc Kỷ. Vào giữa thế kỷ thứ IV, người ta tôn vinh ông không chỉ là một vị chủ tướng lừng lẫy đưa các binh sĩ tinh nhuệ La Mã đến niềm vinh quang chiến thắng, mà còn là một vị Hoàng đế liêm chính và đức độ có một không hai. Họ thường nói là Giáo hoàng Grêgôriô I, với ơn trên, đã hồi sinh Hoàng đế Traianus và làm lễ rửa tội cho ông với đức tin Ki-tô giáo. Một lời chứng cho việc này được kể lại trong cuốn "Huyền thoại Vàng" (Golden Legend) nổi tiếng. Các nhà thần học, như Thomas Aquinas (người Anh), ca ngợi Traianus là điển hình của một tín đồ Đa Thần giáo đức độ. Vào thế kỷ thứ XIII, trong bản Thần khúc trứ danh, đại thi hào Ý là Dante Alighieri, dựa vào huyền thoại này, cho biết hoàng linh của Traianus ở trên Thiên đường của thần Jupiter, cùng với những nhân vật lịch sử và huyền thoại nổi tiếng vì đức tính chính trực. Sự ra đời của "Thần khúc" đã khiến cho "sự hồi sinh của Traianus" thời Trung Cổ ngày càng trở nên sống động. Một ví dụ điển hình là ông cũng được tả lại trong bài thơ Piers Plowman của nhà thi hào William Langland, một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nước Anh thời kỳ Trung Cổ. Sự sáng suốt của ông cũng được thể hiện trong bức tranh bộ đôi sống động được trang trí bằng thảm của người Flander vào thế kỷ thứ XV, nay hãy còn ở Viện Bảo tàng Lịch sử Bern. Vua nước Tây Ban Nha là Carlos III xuống lệnh do nhà họa sĩ Anton Raphael Mengs vẽ bức tranh Lễ khải hoàn của Traianus trên trần Hoàng cung Madrid – được coi là kiệt tác lớn nhất của nhà họa sĩ. Nhà văn hào Pháp Voltaire, khi ca ngợi ông vua hiền triết Friedrich II Đại Đế nước Phổ), đã viết rằng ông sáng suốt chẳng kém chi Hoàng đế Traianus. Vào năm 1740, Voltaire cũng tôn vinh vị vua này là "có nhân cách của Titus, Traianus...". Có kiến trúc sư cung đình cũng tán dương Friedrich II Đại Đế là Traianus, và bản thân ông cũng trích dẫn vị anh hùng Traianus để minh chứng tính "chính nghĩa" của các cuộc chinh phạt của mình. Không những liên tục ca ngợi Friedrich II Đại Đế là Traianus trong các thư từ, mà chính Voltaire cũng tán tụng vua Pháp Louis XV là vị Hoàng đế La Mã huy hoàng năm xưa. Thời đó, người ta cũng ví von vị Hoàng đế La Mã Thần thánh anh minh Joseph II với Traianus - một trong những vị Hoàng đế kiệt xuất nhất của La Mã thuở xa xưa mơ hồ.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus** hay còn gọi là **Trajan** (18 tháng 9 năm 53 – 9 tháng 8 năm 117), là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 98
**Cầu Traianus** (; / _Trajanov most_), còn gọi là **Cầu Apollodorus trên sông Danube**, là một cầu vòm La Mã, là cây cầu đầu tiên được xây dựng bắc qua sông Danube, và cũng là
**Cột Traianus** (tiếng Ý: _Colonna Traiana_) là một cột chiến thắng có chiều cao 30 mét ở Roma, Italia. Công trình này tưởng niệm chiến thắng của hoàng đế La Mã Traianus trong chiến tranh
nhỏ|Bản đồ của các công trường Hoàng đế trên những tàn tích hiện tại. Quần thể **Công trường Hoàng đế** (tiếng Latinh: _Fora Imperatorum_, tiếng Ý: _Fori Imperiali_) là một chuỗi các công trường (_fora_
thumb|upright=1.6|Nơi định cư của tộc Therving và Greuthungi năm 376 Giữa năm 376 và 382 **Chiến tranh Gothic** chống lại Đế quốc Đông La Mã, và đặc biệt là Trận Adrianople, thường được coi là
**Hadrianus** ( 24 tháng 1 năm 76 – 10 tháng 7 năm 138) là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 117 cho đến khi qua đời vào năm 138.
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
**Marcus Aurelius Antoninus Augustus** (ngày 26 tháng 4 năm 121 – 17 tháng 3 năm 180) là một Hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 161 đến khi ông mất vào năm 180. Ông
Khu vực sinh sống của người Alemanni, những địa điểm các trận chiến giữa người Alemanni và người La Mã, từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6 **Alemanni** (**Alamanni**, **Alamani**) là một liên minh
### Thời kì Nguyên thủ (27 TCN-235 CN) Giữa các triều đại của hoàng đế Augustus và Traianus, Đế quốc La Mã đã giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn ở cả phía Đông
**Biên thành Danube** hay **Biên thành Donau** () đề cập đến biên giới quân sự hay Biên thành La Mã dọc theo sông Danube ngày nay thuộc các quốc gia Đức, Áo, Slovakia, Hungary, Croatia,
**Tiếng Latinh cổ điển** (tiếng Latinh: _Latinitas_ "thiện ngữ" hoặc _Sermo latinus_ "tiếng nói tốt", tiếng Anh: _Classical Latin_) là hình thức ngôn ngữ Latinh được các tác gia thời hậu kỳ Cộng hòa La
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Quảng trường Vendôme** là một trong những quảng trường nổi tiếng của Paris, nằm ở Quận 1 của thành phố. Được xây dựng từ thời vua Louis XIV, ngày nay quảng trường Vendôme thuộc khu
nhỏ|Tượng [[Victoria (thần thoại)|Nữ thần Chiến thắng tại Khải hoàn môn Wellington, thủ đô Luân Đôn.]] **Chiến thắng**, còn gọi là **thắng lợi**, là một thuật ngữ, vốn được áp dụng cho chiến tranh, để
**Legio X Fretensis** (**quân đoàn thứ mười của eo biển**) là một quân đoàn La Mã được Augustus Caesar thành lập vào năm 41/40 trước Công nguyên để chiến đấu trong thời kì nội chiến
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Cột Vendôme** (tiếng Pháp: _Colonne Vendôme_) là một cây cột tưởng niệm nằm giữa quảng trường cùng tên ở quận 1 thành phố Paris. Công trình được Hoàng đế Napoléon cho xây dựng để kỷ
thumb|[[Cầu Alcántara ở Tây Ban Nha, một kiệt tác xây dựng thời cổ đại.]] **Cầu La Mã** là loại cầu được xây dựng bởi người La Mã cổ đại, là những cây cầu lớn và
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
Ngày **27 tháng 1** là ngày thứ 27 trong lịch Gregory. Còn 338 ngày trong năm (339 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *98 – Traianus kế vị cha nuôi Nerva làm hoàng đế
Ngày **18 tháng 9** là ngày thứ 261 (262 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 104 ngày trong năm. ## Sự kiện * 96 – Sau khi Hoàng đế Domitianus bị ám sát, Thượng
**Ý** hay **Italia** (), tên chính thức là **Cộng hòa Ý** hay **Cộng hòa Italia** () là một quốc gia tại châu Âu, thường được xếp vào khối Nam Âu hoặc Tây Âu. Lãnh thổ
**Joseph II** (tên đầy đủ là **Joseph Benedikt Anton Michael Adam**; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1741, mất ngày 20 tháng 2 năm 1790) là Hoàng đế của đế quốc La Mã Thần thánh
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Marcus Cocceius Nerva** (8 tháng 11 năm 30 – 27 tháng 1 năm 98) là hoàng đế La Mã từ năm 96 đến khi ông qua đời năm 98. Ông là hoàng đế đầu tiên
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Gaius Messius Quintus Traianus Decius** ( khoảng 201 - tháng 6, 251) là Hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 249 đến năm 251. Decius sinh ra ở Budalia (gần Sirmium ở Thượng Pannonia)
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**România** (tiếng România: _România_ , trong tiếng Việt thường được gọi là **Rumani** theo ), là một quốc gia nằm tại đông nam châu Âu, với diện tích 238.391 km². România giáp với Ukraina và Moldova
Lăng Hùng Vương trên núi Nghĩa Lĩnh.|thế= **Triều đại**, **hoàng triều**, hay **vương triều**, thường là danh từ để gọi chung hai hay nhiều vua chúa của cùng một gia đình nối tiếp nhau trị
nhỏ|Cầu máng tọa lạc tại trung tâm thành phố Segovia **Cầu máng ở Segovia** là cây cầu dẫn nước dài nhất được xây dựng từ thời La Mã cổ đại và theo phong cách Kiến
**Êvaristô** (tiếng Latinh: _Evaristus_, tiếng Ý: _Evaristo_) là vị Giáo hoàng thứ năm của giáo hội Công giáo. Trong danh mục Liberian thì tên của ông được liệt kê như là **Aristus**. Thời gian cai
**Clêmentê I** (Latinh: _Clemens I_) cũng được gọi là **Clement thành Roma** hay **Clement thuộc Roma** (Latinh: _Clemens Romanus_), để phân biệt với Alessandrinus (?-97). Ông được nhắc đến từ rất sớm là Giám mục
**Năm 103** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện * Quốc vương Traianus và Manius Laberius Maximus trở thành Quan chấp chính. ## Sinh ## Mất * Kanishka, Vua Đế quốc Quý Sương
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Lịch sử của Romania** chịu ảnh hưởng mạnh bởi lịch sử, văn hóa của La Mã cổ đại. Lịch sử của România (là một quốc gia) bắt đầu vào năm 1859. Tuy nhiên, lịch sử
**Roșia Montană** (, "Roșia of the Mountains"; ; , ; ) là một xã thuộc hạt Alba, trong khu vực dãy núi Apuseni, phía tây của vùng lịch sử Transilvania, Rumani. Nó nằm trong thung
**Biên thành La Mã** là một hệ thống phân chia ranh giới, bảo vệ biên giới của Đế quốc La Mã nhưng nó không được sử dụng cho các thành lũy hoàng gia hoặc thành
**Trận Hadrianopolis** (ngày 9 tháng 8 năm 378), còn được gọi là **Trận Adrianopolis**, là trận chiến giữa Quân đội La Mã do Hoàng đế Valens thân chinh thống lĩnh và quân nổi dậy Goth
Danh sách các lâu đài và các lâu đài bị phá hủy ở Albania, sắp xếp theo đơn vị hành chính Hạt Albania. ## Berat (hạt) * Lâu đài Berat ## Dibër (hạt) * Lâu
**Timgad** (còn được gọi là **Thamugas** hoặc **Thamugadi** trong tiếng Berber cổ) là một thành phố La Mã-Berber nằm trên dãy núi Aurès, Algérie. Nó được thành lập bởi hoàng đế Trajan khoảng năm 100.
**Trận Willows** (năm 377) diễn ra tại một địa điểm được gọi là **ad Salices** ("thị trấn bên những cây liễu"), hoặc theo Ammianus, là một trạm nghỉ bên đường có tên **Ad Salices** ("bên
thumb|Thế giới Địa Trung Hải theo như mô tả trong bộ sử _Getica_ của Jordanes. [[Đế quốc Đông La Mã, thủ đô Constantinopolis được tô màu hồng. Những vùng bị Justinianus chinh phạt được tô
: _Chỉ có những người nổi bật và có bài viết riêng về họ nên được đưa vào đây. Có thể bao gồm các bài viết trong các ngôn ngữ khác trên Wikipedia mà chưa
**Khải hoàn môn Constantinus** (, ) là một Cổng chào chiến thắng tại Roma, nằm giữa Đấu trường La Mã và đồi Palatine. Cổng được lập nên bởi Viện Nguyên lão La Mã để kỷ