✨Giáo hoàng Clêmentê I

Giáo hoàng Clêmentê I

Clêmentê I (Latinh: Clemens I) cũng được gọi là Clement thành Roma hay Clement thuộc Roma (Latinh: Clemens Romanus), để phân biệt với Alessandrinus (?-97). Ông được nhắc đến từ rất sớm là Giám mục của giáo phận Rôma và là giáo hoàng của Giáo hội Công giáo. Ông sinh vào thế kỷ I Công Nguyên tại Rôma, thuộc đế quốc La Mã. Bắt đầu triều đại Giáo hoàng vào khoảng năm 92 đến khi qua đời vào khoảng năm 99 hoặc 101 tại Chersonesus, Taurica, Vương quốc Bosporan (ngày nay là Crimea, Ukraina).

Thời gian cai trị

Về vị trí của ông trong danh sách các Giáo hoàng không có sự đồng nhất. Theo thánh Irênê, Giám mục của Lyons (Adversus haereses III, 3,2-3) viết năm 180, Clêmentê được xếp vào hàng thứ ba trong danh sách các Giám mục Rôma sau tông đồ Phêrô (Phêrô: 30-67, Linô: 67-76; Anaclêtô: 76-88; Clêmentê: 88-97). Ông Tertulianô (khoảng 199) lại cho rằng thánh Clêmentê được chính Phêrô truyền chức Giám mục (4, Praescriptiones, XXXII) Từ đó nảy ra lưu truyền là Clêmentê kế vị trực tiếp thánh Phêrô, theo thứ tự: Phêrô, Clêmentê, Linô, Anaclêtô.

Ông Ôrigiênê đồng hoá với một cộng sự viên của thánh Phaolô được nhắc đến ở trong thư gửi giáo đoàn Phi-líp-phê (Philippi): "cũng như anh Cơ-lê-men-tê và các cộng sự viên khác mà tên tuổi đã được ghi trong sổ bộ Trường Sinh" (Pl 4,3). Tuy nhiên, khó mà đồng nhất hai người này làm một. Có lẽ người mà Thánh Phaolô nhắc đến là một nô lệ đã được giải phóng của T.Flaviô Clêmentê làm quan nhiếp chính đồng thời với anh họ của ông là Hoàng đế Đômitianô. Mục sư Hermas (Thị kiến 2,4,3) gợi lên một Clêmentê có chức vụ giữ gìn sự tiếp xúc giữa các Giáo hội khác nhau; người ta đã cho ông thêm chức vụ này để quy cho ông bức thư gửi cho Giáo hội Côrintô. Ông cũng được một số tác giả của những năm đầu Ki-tô giáo đồng nhất với quan nhiếp chính Flavio Clêmentê, người đã bị Đômitianô ám sát.

Theo Êusêbiô thành Cêsarê vào thế kỷ thứ IV thì ông cai trị trong khoảng thời gian từ năm 88 đến 97. Niên giám Toà thánh năm 1861 thì ông lên ngôi giáo hoàng năm 90 và cai trị 9 năm. Theo niên giám Tòa thánh 2003 thì ông cai quản Giáo hội trong khoảng thời gian từ năm 88 tới 97 của thế kỷ thứ nhất. Ông được nhiều giáo hội tôn vinh là thánh. Giáo hội công giáo, Anh giáo và Tin lành Luther kính nhớ vào ngày 23 tháng 11. Trong khi các giáo hội đông phương kính nhớ vào ngày 24 hoặc 25 tháng 11.

Người ta ít biết về thời niên thiếu của ông. Clêmentê I là người Rô-ma, sống vào cuối thế kỷ thứ nhất. Truyền thống cho rằng Clement là một nhà hùng biện, yêu mến Thánh Kinh và thấu suốt tư tưởng, giáo lý của Chúa Giêsu.

Thư gửi Giáo hội Côrintô

Thánh Clement bởi Tiepolo Thực ra điều chắc chắn là ông là tác giả của một bức thư là tư liệu đầu tiên để xét đến ưu thế của Giám mục Rô-ma. Vì ông phải can thiệp để giải hòa cho Giáo hội Côrintô đang bị giày vò bởi những rối loạn nội bộ nghiêm trọng giữa các phe phái đối thủ tìm hỏi hoặc là đòi hỏi Gioan, vị Tông đồ cuối cùng còn sống, hoặc là Clêmentê. Ông đã viết một bức thư, bằng tiếng Hy Lạp, là một bài thuyết trình thực sự về đức tin như nó đã được viết ra vào cuối thể kỷ thứ nhất đó là vào năm 95. Nó được giữ gìn cẩn thận và được phổ biến rộng rãi trong thời tiên khởi. Đó là lá thư của Giáo hội Rôma, tác giả là Đức Clement, gửi cho Giáo hội ở Corintô về sự chia rẽ đã làm tách biệt giáo dân với giáo sĩ. Đức Clement phàn nàn về sự chia rẽ trái phép và vô lý ấy trong Giáo hội Corintô, và ngài khuyên hãy đoàn kết lại. Ngài coi lý do của sự tranh chấp ấy là vì "đố kỵ và ghen ghét." Ông đã khéo léo pha trộn một lòng nhân ái phụ mẫu với một sự kiên quyết và một cảm thức bẩm sinh về quyền uy. Ông áp đặt sự tái lập vào chức năng của họ những linh mục đã bị cách chức và loại ra khỏi Giáo hội những kẻ xúi dục làm loạn.

Đây được coi là văn bản thần học xưa nhất của Ki-tô giáo nếu không kể các bản văn tin mừng. Nó đã bị bỏ quyên vào thế kỷ IV, và được tìm thấy vào thế kỷ XVII trong Codex Alexandrinus (Bản Alexanđê). Năm 1894, một tu sĩ Bênêđictôn người Bỉ đã tìm được ở Namur một thủ bản của thế kỷ IX có chứa bản dịch bằng tiếng Latinh bình dân bức thư của Clêmentê, bản dịch từ thế kỷ II hoặc III, tức gần như đồng thời với kiểu chữ viết của nó.

Tác phẩm bắt đầu bằng những lời như sau: "Hội thánh của Thiên Chúa đang lữ hành tại Rôma gửi Hội thánh của Thiên Chúa đang lữ hành tại Côrintô". Truyền thống cho rằng tác giả là ông Clêmentê, Giám mục Rôma, gửi cho các kỳ mục của giáo đoàn Côrintô. Bức thư được viết vào khoảng giữa năm 94-97 (cuối triều hoàng đế Đômitianus hay đầu triều hoàng đế Nerva). Tác phẩm này đã được giáo đoàn Ai Cập và Syria nhận vào hạng danh sách quy thư Tân Ước. Bức thư kết thúc bằng một "lời nguyện chung" cầu cho các Kitô hữu và hết mọi người: "Lạy Chúa, xin ban sự hòa thuận và bình an cho chúng con và mọi dân cư trên Trái Đất, như Chúa đã ban cho cha ông chúng con khi cha ông chúng con cầu khẩn Danh Chúa trong đức tin và chân lý. Vì thế, xin Ngài hãy làm cho chúng con biết phục tùng Danh toàn năng và chí thánh Ngài, cũng như với các vị đang lãnh đạo và hướng dẫn chúng con dưới thế này. Lạy Chúa, chính Ngài đã ban cho họ quyền năng do uy lực lớn lao và khôn tả của Ngài, để khi đã hiểu rằng chính do ngài, họ nhận được vinh quang và vinh dự, chúng con sẽ tùng phục họ và sẽ không làm gì trái ý Chúa. Xin Chúa ban cho họ sức khỏe, bình an, hòa thuận, ỗn định, để họ thực thi quyền hành Chúa ban cách tốt đẹp."(Clément de Roma, Thư gửi tín hữu Corintô, 60-61 trích trong "Les Ecrits des Pères apostoliques" trang 108).

Bức thư cho thấy Giám mục La Mã có quyền bính và được nhìn nhận. Và chính ông là người dàn xếp cuộc nổi loạn của cộng đoàn tín hữu Corintô. Đọc bức thư gửi, mọi người nhận ra ông là vị mục tử hiền từ, bác ái, khiêm nhượng và yêu mến kinh thánh. Ông là người đã sống họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu nhân từ, hiền hậu. Khi biết tin giáo đoàn Côrintô bị xáo trộn chia rẽ do việc truất chức vài kỳ mục (chương 44,3; 47,6), vị lãnh đạo giáo đoàn Rôma đã viết bức thư để kêu gọi tái lập sự đoàn kết, bằng những lời khuyên lơn răn dạy về các nhân đức khiêm nhường, hoà hợp, bác ái, chống lại sự đố kỵ ghen tương. Truyền thống cho rằng ông là người đã truyền cử hành bí tích Thêm sức theo lễ nghi của Thánh Phêrô. Tiếng "Amen" trong các nghi thức tôn giáo được cho là phát xuất từ triều đại ông.

Tử vì đạo

trái|nhỏ|Cuộc tử đạo của giáo hoàng Clêmentê I được vẽ bởi [[Fungai]] nhỏ|Tranh tường ở Vương cung Thánh đường Thánh Clêmentê: Thánh Cyril và Methodius mang hài cốt thánh Clêmentê I về Rôma Lịch sử cho biết ông tử đạo năm 101 dưới thời Hoàng đế Marcus Ulpius Nerva Traianus (còn gọi là Trajan). Ông đã bị bắt, bị hoàng đế kết án lưu đày sang Pontus (Chersonèse (Bắc Hải) (tài liệu khác nói rằng ông bị kết án tử hình). Ông bị cột neo quanh cổ và bị quăng xuống biển. Người ta đã vớt được xác ông và đưa về La Mã, dưới triều Giáo hoàng Adrianô II. Tuy nhiên, chi tiết về việc tử đạo của ông đều là truyền thuyết, được góp nhặt trong khoảng thế kỷ 4 hay 5. Một hoặc hai năm trước khi chết (869) thánh Cyril đã tới Rôma và mang theo những gì được cho là hài cốt của Clement I: bộ xương cùng với mỏ neo mà Cyril tìm thấy ở Crimea. Nó đã được chôn cất tại thánh đường Basilica di San Clemente.

Theo lưu truyền thì đền Thánh Clement ở Rôma, nằm giữa thung lũng Esquilino và Celino, là một trong những giáo đường đầu tiên ở thành phố này, được xây trên khu đất xưa là nơi cư ngụ của Thánh Clement. Nó được xây dựng lại trong những năm đầu của thế kỷ XII, dưới thời Giáo hoàng Paschal II trên nền móng của một nhà thờ cũ, được xây dựng vào thế kỷ thứ IV, dưới thời Constantinus I (337) hoặc ngay sau đó.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Clêmentê I** (Latinh: _Clemens I_) cũng được gọi là **Clement thành Roma** hay **Clement thuộc Roma** (Latinh: _Clemens Romanus_), để phân biệt với Alessandrinus (?-97). Ông được nhắc đến từ rất sớm là Giám mục
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Clêmentê XI** (Latinh: **Clemens XI**) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Clêmentê VIII** (Latinh: **Clemens VIII**) là vị giáo hoàng thứ 231 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1592 và ở ngôi Giáo
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Thánh Giáo hoàng Piô V**, (Tiếng Latinh: _Sancte Pie V_, tiếng Ý: _San Pio V_) là vị giáo hoàng thứ 225 của giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Giáo hoàng Lêô XI** (2 tháng 6 năm 1535 – 27 tháng 4 năm 1605), tên thật là **Alessandro Ottaviano de' Medici**, ông ở ngôi giáo hoàng từ ngày 1 tháng 4 năm 1605 đến
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Lêôn IX** (Latinh: **Leo IX**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Đamasô Nhị Thế và là vị giáo hoàng thứ 152 của Giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Biển Đức IX** hoặc **Bênêđictô IX** (Latinh: _Benedictus IX_) là giáo hoàng được liệt kê ở vị trí thứ 145, 147, 150 của Giáo hội Công giáo. Triều đại Giáo hoàng này xảy ra nhiều
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Nicôla II** (Latinh: **Nicolau II**) được coi là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IX sau khi Giáo hoàng giả Benedict IX bị truất phế. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc
**Phaolô V** (Latinh: **Paulus V**) là vị giáo hoàng thứ 233 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông ở ngôi Giáo hoàng trong 15 năm 7 tháng 13
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
nhỏ|240x240px| _Ngọn đuốc của Nero_, tranh của [[Henryk Siemiradzki (1876)]]**Các thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Rôma** là những Kitô hữu đã chịu tử đạo tại thành phố Roma trong cuộc bách hại
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Nhà Medici** ( , ) là một gia tộc ngân hàng và triều đại chính trị người Ý, lần đầu tiên củng cố quyền lực tại Cộng hòa Florence dưới thời Cosimo de' Medici, trong
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
nhỏ|Mathilde von Tuszien và Hugo von Cluny biện hộ cho Heinrichs IV **Tranh cãi việc bổ nhiệm giáo sĩ** là đỉnh điểm của một cuộc xung đột chính trị trong thời Trung cổ châu Âu
**Thánh Phêrô** hay **Thánh Peter** (Tiếng Hy Lạp: _Πέτρος_, _Pétros_ "Đá", **Kêpha** (**Cephas**), **Phi-e-rơ**, hoặc thỉnh thoảng là **Simôn con ông Giôna**; Tiếng Anh: **Saint Peter**) là tông đồ trưởng trong số mười hai Tông
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Anne Boleyn** (tiếng Latinh: _Anna Bolina_; tiếng Tây Ban Nha: _Ana Bolena_; 1501 / 1507 – 19 tháng 5 năm 1536) là một quý tộc người Anh, vợ thứ hai của Henry VIII của Anh,
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
thumb|Cờ hiệu của Jacques de Molay **Jacques de Molay** (; khoảng 1240-1250 là đại huynh trưởng thứ 23 và cũng là cuối cùng của Hiệp sĩ dòng Đền. Ông lãnh đạo dòng Đền từ ngày
nhỏ|235x235px|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Hungary]] **Vua của Hungary** () là người đứng đầu của Vương quốc Hungary từ năm 1000 (hoặc 1001) đến năm 1918, có tước hiệu là "**Vua Tông đồ Hungary**"
**Sigismund III Vasa** (tên khác: **Sigismund III của Ba Lan**, , ; 20 tháng 6 năm 1566 – 30 tháng 4 năm 1632 N.S.) là vua của Ba Lan và Đại công tước của Litva,
**Henri II** (tiếng Pháp: Henri II; 31 tháng 3 năm 1519 – 10 tháng 7 năm 1559) là Vua của Pháp từ ngày 31 tháng 3 năm 1547 cho đến khi ông qua đời vào
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Francesco Forgione,** còn được biết đến với tên **Thánh Piô Năm Dấu**, **Cha Piô** (tiếng Ý: _Padre Pio_)**, Cha Thánh Piô, Cha Thánh Piô Năm Dấu, Thánh Padre Pio, Thánh Piô Pietrelcina** và **Thánh Piô
**Chersonesus** (; ; tiếng Nga và Ukraina hiện đại: Херсонес, _Khersones_; cũng được dịch là _Chersonese_, _Chersonesos_), trong Hy Lạp Trung Cổ rút gọn lại thành **Cherson** (Χερσών; Đông Slav cổ: Корсунь, _Korsun_) là một
**Flavius Petronius Maximus** (tên gọi đầy đủ là **Flavius Anicius Petronius Maximus**) (396 – 455) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì được khoảng hai tháng rưỡi vào năm 455. Ông là một Nguyên