Clêmentê XI (Latinh: Clemens XI) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo hoàng trong 20 năm 3 tháng 25 ngày.
Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng ngày 23, 30 tháng 11 năm 1700, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 8 tháng 12 và ngày kết thúc Triều đại của ông là ngày 19 tháng 3 năm 1721.
Trước khi thành giáo hoàng
Nguồn gốc Albani
Giáo hoàng Clemens XI sinh tại Urbin, Marches ngày 23 tháng 6 năm 1649 với tên thật là Gianfrancesco Albani.
Ông là Giáo hoàng gốc người Albania, thuộc dòng họ Laci de Kurbin, tổ tiên ông, Michel Laci đã rời bỏ Albania với hai con trai là Georges và Philippe (chiến đấu với Skanderbeg) vì quân Thổ, đang đóng quân tại Urbin nước Italia, nơi mà ông lấy tên là Albani.
Georges có hai con trai là Horace và Charles. Horace đến ở Rôma tại Vatican – nơi ông được giáo hoàng Urbanô bổ nhiệm làm ủy viên nguyên lão. Charles là cha của Gianfrancesco.
Một nhánh khác của gia đình Albani đến ở tại Bergamo nổi bật với Gian Geronimo Albani (1504 – 1591) kinh sĩ, tác giả của những tác phẩm quan trọng. Ông này trở thành hồng y vào năm 1570.
Trở thành hồng y
Gianfrancesco lúc 11 tuổi đã vào học viện Rôma do các tu sĩ dòng tên điều khiển. Tại đây, ông học rất xuất sắc và được nữ hoàng Thụy Điển là Christina I chú ý tới.
Năm 28 tuổi, ông được bổ nhiệm làm giám mục Rieti. Sau đó, ông chịu trách nhiệm về các giáo phận Sabina và Orvieto.
Ông được gọi về Rôma và được bổ nhiệm làm giám quản nhà thờ thánh Phêrô Rôma, rồi thư ký văn phòng đoản sắc Giáo hoàng.
Năm 1690, ông nhận chức hồng y lúc 41 tuổi, rồi được thụ phong linh mục.
Giáo hoàng
Năm 1700, khi Giáo hoàng Innôcentê XII qua đời, cơ mật viện chuẩn bị bầu hồng y Mariscotti nhưng nước Pháp lấy quyền phủ quyết của mình phản đối việc đó. Lúc bấy giờ, các hồng y quay sang hồng y Albani, người mới chỉ 51 tuổi.
Vấn đề nối ngôi ở Tây Ban Nha
Ngay vừa lên ngôi, ông đã phải đối mặt với chiến tranh nối ngôi của Tây Ban Nha: vì Charles II đã từ trần trong khi đang họp cơ mật viện.
Trước tiên, năm 1701, ông theo phái Philippe V nước Pháp. Tuy nhiên điều đó đã làm cho ông bị sự thù địch của nước Áo và vấn đề trao chức của vương quốc Napoli và Sicilia cũng đã làm cho ông phải trả giá bằng sự không hài lòng của Philippe V.
Những thất bại của đoàn quân Pháp – Tây Ban Nha đối diện với đế quốc đã để hở các lãnh thổ Giáo hoàng.
Eugène de Savoie-Carignan đã đưa các đoàn quân của mình vào đó. Clement đã phải cam lòng thừa nhận Charles III năm 1709. Cuối cùng những chuyển biết mới bất ngờ xảy ra: quân Pháp lại thắng thế, Joseph I chết và Charles rời Tây Ban Nha sau khi được bầu vào ngai hoàng đế.
Louis XIV tức giận từ chối việc làm trung gian của Clement XI và chính quyền của Giáo hoàng chỉ được cử một quan sát viên làm đại diện ở hiệp ước Rastatt. Chính quyền Giáo hoàng phải mất một thời gian để bình tâm trở lại về sự nối ngôi của Tây Ban Nha.
Lạc thuyết Jansénius
Lạc thuyết Jansénius vẫn chống đối và hoạt động mạnh mẽ bằng dù đã bị kết án. Để tận diệt tận gốc nhóm chống đối trong nữa đan viện Port-Royal, năm 1709 Giáo hoàng Clêmentê XI ra lệnh giải tán đan viện này.
Nhưng thuyết Jansénius lại xuất hiện một cách khéo léo với linh mục diễn giảng Pasquier Quesnel (1634-1719).
Năm 1671, ông xuất bản cuốn Luân lý Phúc Âm yếu lược, được bổ túc và tái bản năm 1694 với nhan đề Những cảm niệm đạo đức về Tân ước. Trong đó có nhiều điểm nhiễm giáo thuyết Jansénius.
Năm 1708, Giáo hoàng Clemens XI ra tông chiếu Unigenitus, kết án 101 luận đề rút trong sách của Quesnel.
Vấn đề không yên, nhất là từ năm 1715, khi Louis XIV, người chủ trương thẳng tay với Jansénius qua đời. Quesnel lợi dụng chủ trương Pháp giáo chống lại Tòa thánh và chống án lên đại công đồng.
Năm 1718, Giáo hoàng Clemens XI rút phép thông công nhưng họ vẫn không tuân. Phái Jansénius còn tồn tại mãi cho tới năm 1771.
Vấn đề nghi lễ Trung Hoa
Clement XI đã nối tiếp công việc của vị tiền nhiệm tổ chức những phiên họp tranh luật về lễ nghi Trung Hoa nhằm tìm ra giải pháp. Hai vị giám mục truyền giáo ở Trung Hoa, các đại diện hai dòng Tên và Đa minh, cùng nhiều nhà truyền giáo khác được Giáo hoàng mời về Roma dự một hội nghị do Giáo hoàng đích thân chủ tọa. Sau khi nghe các bên trình bày.
Cuối cùng vào ngày 20 tháng 11 năm 1704, Đức Clement XI đã kết án lễ nghi Trung Hoa:
"Không được cho phép, bất cứ cách nào hay vì lý do gì, các tín hữu được chủ sự, tham gia nghi thức, kể cả tham dự, những buổi lễ quan trọng hay những buổi cúng tế quen cử hành theo định kỳ hằng năm đối với Khổng Tử và tiên nhân đã khuất, được xem như những nghi lễ đầy dị đoan. 7. Không thể cho phép tín hữu giữ bàn thờ tổ tiên theo phong tục Trung Hoa tại nhà riêng, bài vị có ghi: tọa vị của thần minh, hoặc âm hồn, mà người ta thường dùng để chỉ nơi hồn hay sinh linh người đã chết thỉnh thoảng đến an vị. ".
Ông còn buộc các giám mục cũng như linh mục, bất cứ thuộc dòng tu nào phải vâng theo. Tông hiến được trao cho Giám mục Ch.M.Maillard de Tournon, thượng phụ giáo chủ hiệu tòa Antiokia, đang làm đặc sứ tòa thánh tại các xứ truyền giáo Đông phương có nhiệm vụ công bố và thi hành tại chỗ. Trong khi chờ đợi vị đặc sứ tới Trung Quốc, ông kêu gọi các nhà truyền giáo sẵn sàng chấp nhận những quyết định của Tòa thánh, tránh mọi cuộc tranh luật gây chia rẽ.
Ngày 8 tháng 4 năm 1705, đức thượng phụ tới Macao, tỏ ra can đảm và cương quyết nhưng lại thiếu tế nhị. Ông truyền tháo hai chữ "Kính thiên" do chính vua Khang Hy thủ bút gắn trên mặt tiền thánh đường Bắc Kinh. Ngày 25 tháng 1 năm 1707, tại Nam Kinh, đức thượng phụ công bố sắc lệnh chính thức bác bỏ lễ nghi Trung Hoa vì "không phù hợp với lễ nghi Công giáo".
Các thừa sai dòng Tên một lần nữa khiếu nại sang Tòa thánh, nhưng đức Clement phúc đáp bằng việc trao mũ hồng y cho đức thượng phụ. Hồng y đặc sứ và 10 cha dòng Đa Minh bị trục xuất khỏi Trung Quốc.
Ngày 25 tháng 9 năm 1710, Giáo hoàng Clement XI lại ban một Tông hiến khác, châu phê sắc lệnh Nam Kinh 1707, cấm khiếu nại, cấm trở lại vấn đề lễ nghi. Tuy nhiên phe "bênh lễ nghi" vẫn tìm ra lẽ để khỏi phỉa vâng phục.
Ngày 19 tháng 3 năm 1715, Giáo hoàng Clement XI ban hành tông chiếu "Ex illa die" long trọng kết án nghi lễ Malabars và Trung Hoa, phạt vạ tuyệt thông những ai bất tuân phục Tòa thánh về những lễ nghi đã bị bác bỏ, đồng thời buộc ác thừa sai Đông phương phải tuyên thệ trung thành với Tòa thánh trong việc này.
Vua Khang Hy coi đây là hành vi nhục mạ quốc thể nên ra lệnh cấm đạo, ông ra lệnh triệt hạ các nhà thờ, bắt bớ tín hữu, trục xuất các thừa sai. Việc bách hại gắt gao hơn dưới thời vua Ung Chính (1732-36).
Năm 1720, Khâm sứ Mezzabarba (cũng tòa Antiokia) được cử làm khâm sai sang Trung Quốc thực thi sắc lệnh Tòa thánh đã ban hành về lễ nghi. Đức thượng phụ tới Macao, nhận lời tuyên thệ của các thừa sai, giải và cho một giám mục và một số linh mục.
Trước tình hình căng thẳng, ngày 4 tháng 11 năm 1721, ông đề ra cách áp dụng tông chiếu với tám điểm nới rộng. Đại khái Ông cho phép thực hành nghi lễ với lời phân trần.
Cai quản giáo hội
Clement XI đã bổ nhiệm 4 hồng y thuộc gia đình Albani, các cháu của ông: Alexanđe (1672 – 1779), Hannibal (1682 – 1751), Albani (1720 – 1803) và Giuseppe (1750 – 1834). Ông làm cho lễ Maria vô nhiễm nguyên tội trở thành một lễ buộc và phong thánh cho Giáo hoàng Piô V và những vị khác.
Là người học thức cao và say mê nghệ thuật, ông làm phong phú thêm cho thư viện Vatican. Năm 1702, Giáo hoàng Clemens XI quyết định đưa thêm 50 bức tượng vào số tượng thánh trên quảng trường Thánh Phêrô. Ông là một người có tầm cỡ về luân lý và tâm linh vĩ đại. Ông là người đầu tiên đưa ra luật cấm bất kỳ ai đem bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào ra khỏi Rôma.
Liên quan đến nguồn gốc của ông, ông xem Albani là tổ quốc của ông. Ông tỏ ra quan tâm đến những người đồng hương của mình, cho hai học bổng cho những người Albani tại học viện Propagande Fide năm 1708 và một học bổng thứ ba với số tiền là 4000 êquy.
Ông đã gửi các tu sĩ dòng Phanxicô đến Albania. Các tu sĩ này đã mở các trường học từ năm 1711 trong đó người ta dạy tiếng Albania. Ông đã tổ chức một công đồng ở Merqine de Lezhe để chống lại sự Hồi giáo hóa xứ sở. Dòng máu của Giáo hoàng Clement XI đã lộ ra theo truyền thống dân tộc trong sự thù địch với nhười Thổ.
Ông trở thành người đề xướng Liên minh châu Âu. Liên minh đã dẫn đến hai cuộc bại trận đẫm máu của người Thổ Nhĩ Kỳ, tại Patervaradino và Belgrade, do hoàng thân Eugène de Savoie.
Ông từ trần ngày 19 tháng 3 năm 1721. Gia đình Albani tắt lịm năm 1852 với ông hoàng don Philippe con cuối cùng của Horace III.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Clêmentê XI** (Latinh: **Clemens XI**) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê VI** (Latinh: **Clemens VI**) là vị giáo hoàng thứ 198 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1342 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Lêô XI** (2 tháng 6 năm 1535 – 27 tháng 4 năm 1605), tên thật là **Alessandro Ottaviano de' Medici**, ông ở ngôi giáo hoàng từ ngày 1 tháng 4 năm 1605 đến
**Clêmentê XII** (Latinh: **Clemens XII**) là vị giáo hoàng thứ 246 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1730 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Thánh Giáo hoàng Piô V**, (Tiếng Latinh: _Sancte Pie V_, tiếng Ý: _San Pio V_) là vị giáo hoàng thứ 225 của giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** (Tiếng La Tinh: _Benedictus XIV_), còn gọi là **Bênêđíctô XIV** (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: **Prospero Lorenzo Lambertini**) là một giáo
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Clement VII **Robert Geneva** (1342-16 tháng 9 năm 1394) được bầu làm giáo hoàng đối lập với tước hiệu là Clement VII bởi các vị hồng y người Pháp phản đối
**Urbanô VI** (Latinh:**Urbanus VI**) là vị Giáo hoàng thứ 202 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1378 và ở ngôi Giáo hoàng
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Nicôla II** (Latinh: **Nicolau II**) được coi là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IX sau khi Giáo hoàng giả Benedict IX bị truất phế. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc
**Innôcentê XII** (Latinh: _Innocentius XII_) là vị giáo hoàng thứ 242 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1691 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Alexanđê VIII** (Latinh: **Alexander VIII**) là vị giáo hoàng thứ 241 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1689 và ở ngôi Giáo
**Innôcentê XII** (Latinh: **Innocens XIII**) là vị giáo hoàng thứ 244 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1721 và ở ngôi Giáo
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
**Ly giáo Tây phương** hay **Ly giáo Giáo hoàng** là sự chia rẽ trong Giáo hội Công giáo từ 1378, cho đến cuộc bầu cử Giáo hoàng Máctinô V vào ngày 11 tháng 11 năm
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc** ở Đại lục (gồm cả các lãnh thổ riêng biệt như Hồng Kông và Ma Cao) hiện tại được Tòa Thánh Vatican tổ chức theo không gian địa
**Giáo phận Malang** (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma trực thuộc Tổng giáo phận Semarang, với tòa giám mục đặt tại thành phố Malang, Indonesia. ## Địa giới thumb|upright=1.22|Nhà
**Tổng giáo phận Danh Thánh Chúa Giêsu Cebu** (; ; ; ), thường được gọi tắt là **Tổng giáo phận Cebu** là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công
**Nhà Medici** ( , ) là một gia tộc ngân hàng và triều đại chính trị người Ý, lần đầu tiên củng cố quyền lực tại Cộng hòa Florence dưới thời Cosimo de' Medici, trong
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Anne Boleyn** (tiếng Latinh: _Anna Bolina_; tiếng Tây Ban Nha: _Ana Bolena_; 1501 / 1507 – 19 tháng 5 năm 1536) là một quý tộc người Anh, vợ thứ hai của Henry VIII của Anh,
**Đức Mẹ Đen của Częstochowa** ( hoặc , ), còn được gọi là **Đức Mẹ Częstochowa**, là một linh ảnh Đức Trinh Nữ Maria được tôn kính và đặt tại Tu viện Jasna Góra ở
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Francesco Forgione,** còn được biết đến với tên **Thánh Piô Năm Dấu**, **Cha Piô** (tiếng Ý: _Padre Pio_)**, Cha Thánh Piô, Cha Thánh Piô Năm Dấu, Thánh Padre Pio, Thánh Piô Pietrelcina** và **Thánh Piô
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Maria Luisa Gabriella của Savoia** (; 17 tháng 9 năm 1688 – 14 tháng 2 năm 1714), biệt danh là _La Savoyana_, là Vương hậu nước Tây Ban Nha thông qua cuộc hôn nhân với
::link= _"Florence" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem Florence (định hướng)._ **Firenze** ( hay còn phổ biến với tên gọi **Florence** trong tiếng Anh và tiếng
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
Thánh **Vinxentê Phêrê, O.P.** (còn gọi là **Vinh Sơn** hay **Vincentê**, tiếng Anh: **Vincent Ferrer**) sinh tại Valencia, Tây Ban Nha vào ngày 23 tháng 1 năm 1350, là con thứ ba của ông William
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
**Narai** ( 16 tháng 2 năm 1633 - 11 tháng 7 năm 1688) hoặc **Ramathibodi III** (รามาธิบดีที่ 3) hay **Ramathibodi Si Sanphet** (รามาธิบดีศรีสรรเพชญ์), là vị vua thứ 27 của vuơng quốc Ayutthaya từ năm 1656
**Bí tích Hòa Giải** (còn gọi là **Bí tích Hoán Cải** hay **Sám Hối**, **Xưng Tội**, **Tha Tội**, **Giải Tội**, **Bí tích của sự hối cải**, **Bí tích Thống Hối**, **Bí tích Xưng tội**, **Bí
**Felipe III** (, , ; 27 tháng 3 năm 1306 – 16 tháng 9 năm 1343), là một vị vua của vương quốc Navarra từ năm 1328 cho đến khi ông qua đời. Felipe sinh
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
Ngày **5 tháng 6** là ngày thứ 156 (157 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 209 ngày trong năm. ## Sự kiện *604 – Thánh Đức Thái tử của Nhật Bản chế định Hiến
**Isabelle của Pháp, cũng là Isabel của Navarra** ( hay _Isabelle de Navarre_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_ hay _Isabel de Navarra_; ; 1295 - 22 tháng 8, 1385), có biệt danh là
Ngày **6 tháng 12** là ngày thứ 340 (341 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 25 ngày trong năm. ## Sự kiện *1534 – Những người định cư Tây Ban Nha thành lập nên
**Marion Robert Morrison** (26 tháng 5 năm 1907 – 11 tháng 6 năm 1979), thường được biết đến với nghệ danh **John Wayne** và biệt danh **Duke**, là một nam diễn viên và nhà làm
**Thành phố México** (tiếng Tây Ban Nha: _Ciudad de México_) hay **Đặc khu Liên bang** (Distrito Federal), là thủ đô của México. Thành phố này có mật độ đô thị lớn nhất tại México cũng
**Bắc Macedonia**, quốc hiệu là **Cộng hòa Bắc Macedonia**, nhưng tên gọi Cộng hòa Macedonia cũng được dùng rộng rãi. Ngày 12 tháng 6 năm 2018, Macedonia và Hy Lạp ký Hiệp định Prespa chấm