✨Giáo hoàng Clêmentê VII

Giáo hoàng Clêmentê VII

Clêmentê VII (Latinh: Clemens VII) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi Giáo hoàng trong 10 năm 10 tháng 7 ngày.

Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông được bầu làm Giáo hoàng ngày 19 tháng 11 năm 1534, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên Thiên Chúa là ngày 26 tháng 11 năm và ngày kết thúc triều đại của ông là ngày 25 tháng 9 năm 1534.

Trước khi trở thành giáo hoàng

Giáo hoàng Clêmentê VII sinh tại Firenze ngày 26 tháng 5 năm 1478 với tên thật là Giulio di Guiliano de Medici. Ông là một người trong họ Médicis và là anh em họ với Giáo hoàng Lêô X.

Ông là con hoang của Julien de Médicis, cháu của Laurent le Magnifique. Giáo hoàng Clêmentê VII đã có một con trai ngoài giá thú trước khi ông giữ các chức vụ trong tòa thánh. Một số nguồn khác cho rằng ông là cha ruột của Alessandro de ' Medici (1510 – 1537), công tước của Florence, nhưng nhận định này chưa được khẳng định chắc chắn.

Ông được vinh thăng hồng y vào năm 1513, vài tháng sau khi Lêô X được bầu và ông trở thành một trong những cố vấn của vị Giáo hoàng này. Ông vẫn giữ toàn bộ ảnh hưởng của ông dưới triều của Giáo hoàng Ađrianô VI.

Giáo hoàng

Ông được bầu làm Giáo hoàng ngày 18 tháng 11 năm 1523. Ông đã lấy lại tên của Giáo hoàng Avignon Clêmentê VII, bị xem là một phản Giáo hoàng.

Phong trào Luther

Ông là một người có kiến thức nhưng lờ đờ. Ông chỉ mong muốn bảo vệ tài sải riêng của gia đình ông và chẳng hiểu gì về tầm mức quan trọng lịch sử của phong trào Luther.

Ông không thể ngăn cản được những tranh chấp gay gắt giữa Công giáo và Tin Lành của Luther Cải Cách. Ông được Desiderius Erasmus bằng lòng viết bản luận văn Về ý chí tự do (De libero arbitrio) năm 1524, lên án Luther một cách rụt rè, nhưng Luther đã đáp lại bằng Về ý chí nô dịch (De Servo Arbitrio).

Cải cách giáo hội

Trước những vấn đề bức xúc của Giáo hội, nhất là vấn đề Luther đang đòi hỏi cần phải có một cuộc cải cách đối với kỷ luật trong hàng giáo sĩ, và cũng cần xác định rõ ràng giáo lý Thiên chúa để đáp lại những khẳng định của Tin lành. Càng ngày, Karl V – vua Tây Ban Nha, trở thành hoàng đế năm 1519 – càng tán thành ý kiến này. Giáo hoàng Clêmentê VII cũng chủ trương canh tân Giáo hội. Ông mời hồng y Sadolet và Giám mục Giberti, hai lãnh tụ của phong trào cải cách các giáo phận đến cộng tác. Một ủy ban gồm nhiều hồng y được thành lập, có nhiệm vụ nghiên cứu đường lối cải cách. Giáo hoàng cũng cho điều tra kỹ càng vấn đề nước Đức nhưng vì thiếu cương quyết nên các đề nghị của ủy ban điều tra không được ông cho thi hành.

Song Clêmentê VII lại e ngại việc triệu tập một hội nghị Giám mục cũng giống như các hội nghị ở Costance và Paris trước kia, lại đưa đến sự khẳng định "chủ nghĩa công đồng"; mặt khác Giáo hoàng cũng không thiết tha với việc cải cách kỷ luật, vì còn được lợi khi còn duy trì tình trạng nhũng lạm thuế má Tòa thánh và lạm quyền của triều đình Roma.

Mặt khác, Vua Pháp là Francois I (mất năm 1547), địch thủ kịch liệt của Karl V vì đất Pháp bị đất đai của Karl V bao vây trên các mặt Bắc, Đông và Nam, lo sợ một hội nghị Giám mục sẽ làm cho kẻ kình địch Karl V trở thánh người đứng đầu Giáo hội.

Dưới thời của Giáo hoàng Clêmentê VII, phong trào cải cách của các địa phận và các dòng tu phát động mạnh mẽ, nhiều dòng tu mới được thành lập cung cấp những đoàn người thiện chí xảy sàng hành động.

Clêmentê VII là người đã sáng lập Ban Quản trị tài sản đền thờ Thánh Phêrô: ngày 12 tháng 12 năm 1523 lúc đầu, đây là tập thể do để thu góp và quản lý những tài sản dành vào việc xây cất Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.

Đến sau, đây là một Thánh bộ do Clêmentê VII thiết lập để đảm nhận cùng một nhiệm vụ và nhận thêm thẩm quyền để giải quyết vấn đề pháp lý. Ngày nay, từ này chỉ tổ chức do vị hồng y linh mục niên trưởng Vương cung thánh đường Vatican làm chủ tịch, chuyên lo việc quản trị trần thế của Vương cung thánh đường này.

Nước Anh ly khai

Vua nước Anh, Henry VIII, bị vạ tuyệt thông và lập tức thề bỏ đạo Công giáo. Trước đó, Henry được Giáo hoàng Leo X đặt làm Người Bảo vệ Đức Tin. Sau đó, ông quyết định li dị người vợ của mình là Catalina của Aragón, chỉ vì bà không sinh được con trai để thừa tự. Catherine từng là vợ của Arthur, Thân vương xứ Wales, anh ruột ông đã chết và vị vua này sau đó cưới Catherine với sự phê chuẩn của Giáo hoàng Julius II.

Henry được một số cận thần cho rằng việc phê chuẩn trước đây là trái luật và vô giá trị để ông có thể tiến hành thủ tục tiêu hôn đối với Catherine và lấy Anne Boleyn. Ông xin Giáo hoàng Clêmentê VII cho hồng y đặc sứ xét xử.

Ngày 13 tháng 4 năm 1528, Giáo hoàng đồng ý với đề nghị của Henry VIII và sau đó theo chỉ thị của ông là cố kéo dài việc xử án, hy vọng với thời gian, dục vọng của Henry sẽ dịu đi. Vị hồng y đặc sứ tuyên bố hoãn xử đến đầu tháng 10.

Nhưng Catherine là dì của Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã lại khiếu nại sang tòa thánh nên Karl muốn nhờ Giáo hoàng bênh vực. Giáo hoàng Clêmentê VII bèn tìm cách để củng cố địa vị cũng như thế lực cho gia đình mình, khi ấy đang có tranh chấp với nhiều gia tộc khác.

Nhân cơ hội này, ông yêu cầu Karl V giúp cho một người thuộc gia tộc Medici được cai trị thành Florencia. Sau đó, ông bèn rút quyền tòa án London trong việc phân xử đề nghị ly dị của Henry VIII, trả việc phân xử cho Roma.

Sau khi tìm hiểu vấn đề, ông nhận thấy cuộc hôn nhân của Henry với Catherine là hợp pháp và không thể tháo cởi được, nhưng chưa muốn tuyên bố. Henry VIII viết thư cho Giáo hoàng với những lời lẽ hăm dọa.

Sau khi Hồng y Wolsey, là Tổng Giám mục của Canterbury, không thuyết phục được Giáo hoàng để ban cho nhà vua điều này, Henry đã cách chức Wolsey năm 1529, và bổ nhiệm một người bạn tín cẩn là Sir Thomas More, một luật sư Công giáo lên làm quan chưởng ấn của Anh. Thomas More khẳng định rằng ông chỉ chấp nhận chức vụ này nếu không dính líu đến vấn đề tiêu hôn của nhà vua.

Tháng 1 năm 1531, Clêmentê VII trả lời sẽ phạt vạ tuyệt thông những ai dám đem vụ hôn nhân của Henry ra xét xử ở Anh, cấm Henry VIII lấy Anne Boleyn trước khi có quyết định của Tòa thánh.

Lúc ấy, Henry đã nhất định ly dị Catherine, đồng thời ly khai với Giáo hội. Vào năm 1534, khi Henry tự xưng là thủ lĩnh tối cao của Giáo hội Anh và cắt đứt liên hệ với Rôma, Thomas More đã từ chối không chịu tuyên thệ trung thành với nhà vua dưới danh hiệu này và bị chém đầu vào năm 1535.

Cướp phá Rôma

Lúc nổ ra cuộc tranh luận với Luther, nước Đức đang bị chiến tranh tôn giáo giằng xé. Nước Italia cũng không được yên. Nhận thấy ảnh hưởng của Tây Ban Nha ở Ý quá mạnh, đặc biệt là sau trận đánh ở Pavia, Clêmentê VII liên minh với vua Pháp Francois I vào năm 1524, và để chiều ý Giáo hoàng, ông ra lệnh cấm đạo Tin lành. Giáo hoàng tìm cách tổ chức một liên minh giữa Pháp, Venise và Florentia – thành phố của dòng hộ Medici để chống lại hoàng để. Trong khi đó, vua Pháp đang là kẻ thù của Tây Ban Nha.

Để trả đũa, Charles Quint đã giúp cho sự khuấy động của giới quý tộc Rôma một cách dễ dàng. Giới này tập họp chung quanh dòng họ Colonne đã thành công chiếm lấy Vatican ngày 20 tháng 9 năm 1526.

Lúc bấy giờ Clêmentê VII điều đình hưu chiến với giá 60.000 đuca. Nghe đồn về số tiền này, quân đánh thuê Đức đang dừng lại ở Bắc Italia dưới sự chỉ huy của nguyên súy Bourbon đã quyết định xuống Rôma để tự trả công cho mình bằng một cuộc cướp phá; một hành động khá thịnh hành vào thời kỳ đó. nhỏ|Cuộc trò chuyện giữa Giáo hoàng Clement VII và Hoàng đế Charles V Điều này đã dẫn đến sự cướp phá Rôma ngày 6 tháng 5 năm 1527, quân của tướng De Bombon tiến vào Roma. Chỉ cần bảy ngày, nhiều thánh đường, nhiều đền đài bị cướp phá, nhiều hồng y, Giám mục bị đánh đạp. Giáo hoàng Clêmentê VII phải trốn vào đồn Thiên thần. Những người cộng hòa của Florentia cũng lợi dụng chuyện này để lại một lần nữa loại dòng họ Medici ra khỏi quyền hành. Để chấm dứt cuộc đổ máu khủng khiếp ấy, Clêmentê đã phải ký nhận tất cả những điều kiện của Charles Quint. Ông viết: " Hỡi con yêu dấu, trước mắt ta, chỉ còn một thây ma bị cắt từng mảnh". Thế giới công giáo kinh hoàng trước cảnh tượng này còn Charles Quint thì chối trách nhiệm, ông nói: "Tất cả những cảnh tượng đó xảy ra là do bản án Thiên Chúa chứ không do mệnh lệnh của tôi".

Tấn phong Charles Quint

Mùa thu năm 1528, trong một bài diễn văn đọc tại Madrid, Charles Quint ngỏ ý muốn qua Ý để được Giáo hoàng Clêmentê VII tấn phong hoàng đế. Mặc dầu có nhiều phản đối nhưng vì Carlos đã quyết giữ vai trò hoàng đề Âu châu nên ông đã sang Ý và được Giáo hoàng Clêmentê VII đặt vương miện tại Bolonia tháng 2 năm 1530. nhỏ|Giáo hoàng và vua Francis I của Pháp gặp nhau tại Marseille, 13 tháng 10 năm 1533. Các toán quân của hoàng đế chiếm lấy Florentia cùng năm đó, sau một cuộc bao vây 11 tháng và Clêmentê đã có thể đặt ở đó người con bất hợp pháp của mình là Alexanđê làm quận công xứ Toscane.

Trong khi đó, ở Đức giáo thuyết Luther vẫn ngày một thêm vững mạnh. Một lần nữa ông thúc đức Clêmentê VII triệu tập đại công đồng để ngăn cản sự bành trướng của phe ly giáo, nhằm tái lập hòa bình châu Âu, đối phó với quân Thổ Nhĩ Kỳ đang lăm le xâm chiếm thành Vienna. Năm 1530, một cuộc bàn cãi ở Augsbourg nơi Luther có Mélanchton làm đại diện đồng thời có sự có mặt của Carlos đều không đạt được kết quả như mong muốn.

Giữa lúc đó, Clêmentê VII qua đời ngày 25 tháng 9 năm 1534.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Urbanô VI** (Latinh:**Urbanus VI**) là vị Giáo hoàng thứ 202 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1378 và ở ngôi Giáo hoàng
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Clêmentê II** (Latinh: **Clemens II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Gregory VI sau khi vị này bị cưỡng bách từ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 1046. Theo niên giám tòa thánh năm
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
Giáo hoàng đối lập Clement III giữa và Hoàng đế Henry IV **Guibert** hay **Wibert Ravenna** (1029 - 08 Tháng 9 năm 1100) là một Giám mục người Ý, Tổng Giám mục của Ravenna, người
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Clement VII **Robert Geneva** (1342-16 tháng 9 năm 1394) được bầu làm giáo hoàng đối lập với tước hiệu là Clement VII bởi các vị hồng y người Pháp phản đối
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Bônifaciô IX** (Latinh: **Bonifacius IX**) là vị giáo hoàng thứ 203 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1389 và ở ngôi Giáo
**Victor III** là người kế nhiệm Giáo hoàng Gregory VII và là vị giáo hoàng thứ 158 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng
**Lêôn IX** (Latinh: **Leo IX**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Đamasô Nhị Thế và là vị giáo hoàng thứ 152 của Giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Hônôriô III** (Latinh: **Honorius III**) là vị giáo hoàng thứ 177 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1216 và ở ngôi Giáo
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Nicôla II** (Latinh: **Nicolau II**) được coi là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IX sau khi Giáo hoàng giả Benedict IX bị truất phế. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc
**Innôcentê XII** (Latinh: _Innocentius XII_) là vị giáo hoàng thứ 242 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1691 và ở ngôi Giáo
**Nhà Medici** ( , ) là một gia tộc ngân hàng và triều đại chính trị người Ý, lần đầu tiên củng cố quyền lực tại Cộng hòa Florence dưới thời Cosimo de' Medici, trong
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Ly giáo Tây phương** hay **Ly giáo Giáo hoàng** là sự chia rẽ trong Giáo hội Công giáo từ 1378, cho đến cuộc bầu cử Giáo hoàng Máctinô V vào ngày 11 tháng 11 năm
nhỏ|Mathilde von Tuszien và Hugo von Cluny biện hộ cho Heinrichs IV **Tranh cãi việc bổ nhiệm giáo sĩ** là đỉnh điểm của một cuộc xung đột chính trị trong thời Trung cổ châu Âu
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Anne Boleyn** (tiếng Latinh: _Anna Bolina_; tiếng Tây Ban Nha: _Ana Bolena_; 1501 / 1507 – 19 tháng 5 năm 1536) là một quý tộc người Anh, vợ thứ hai của Henry VIII của Anh,
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Henri II** (tiếng Pháp: Henri II; 31 tháng 3 năm 1519 – 10 tháng 7 năm 1559) là Vua của Pháp từ ngày 31 tháng 3 năm 1547 cho đến khi ông qua đời vào
**Heinrich IV** (11 tháng 11 năm 1050 – 7 tháng 8 năm 1106) là con trai đầu của hoàng đế Heinrich III và nữ hoàng Agnes. Ông là Vua La Mã Đức từ năm 1056,
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
::link= _"Florence" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem Florence (định hướng)._ **Firenze** ( hay còn phổ biến với tên gọi **Florence** trong tiếng Anh và tiếng
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
right|thumb|[[Heinrich IV (đế quốc La Mã Thần thánh)|Heinrich IV và Giáo hoàng Grêgôriô VII ở Canossa 1077, mô tả bởi Carlo Emanuelle]] **Chuyến đi Canossa** (), đôi khi được gọi là **Chịu nhục ở Canossa**
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**Công quốc Firenze** () là lãnh địa của thân vương có trung tâm là thành phố Firenze vùng Toscana nước Ý. Công quốc được thành lập sau khi Hoàng đế Charles V khôi phục quyền
**Công quốc Milano** (tiếng Ý: _Ducato di Milano_; tiếng Lombard: _Ducaa de Milan_) là một nhà nước ở Bắc Ý, được thành lập vào năm 1395 bởi Gian Galeazzo Visconti, khi đó là lãnh chúa
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba
**Nhà nguyện Sistina** (; tiếng Latinh: Sacellum Sixtinum; tiếng Ý: Cappella Sistina ; tiếng Anh: Sistine Chapel) là một nhà nguyện trong Điện Tông Tòa, ở Thành Vatican. Ban đầu được gọi là _Cappella Magna_
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)