Nicôla II (Latinh: Nicolau II) được coi là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IX sau khi Giáo hoàng giả Benedict IX bị truất phế.
Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1058 (ngày 28 tháng 12?) và ở ngôi Giáo hoàng trong 2 năm 6 tháng 25 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định triều đại của ngài kéo dài từ ngày 24 tháng 1 năm 1059 cho tới ngày 27 tháng 7 năm 1061.
Giám mục Florentia
Giáo hoàng Nicolaus II sinh tại Chevron (Cisvaro), Caprea-Dunnum ở Alloborogie, Pháp (nay là Mercury Gemilly trong Com de Savoie) và thuộc dòng họ Chevron – Villette. Tên tục của ông có nhiều dị bản: Gérard, Gérald, Gherard, Gerardius hoặc Giroldus. Các văn bản xưa ghi tên ông là Allobrox, Allobroge, natione Burgondio, sive Sabaudiensis (dân tộc Bourgogne hoặc Savoie), vậy ông cũng được gọi là Gérard de Bourgogne. Có lẽ ông sinh giữa năm 990 và 995.
Vị Giáo hoàng này trước tiên là một đan sĩ có một kiến thức bách khoa rộng lớn đối với thời kỳ của ông, nhưng có lẽ không thuộc dòng Cluny. Sau khi hoàng đế Conrad le Salique chiến thắng Eudes de Champagne và chiếm vương quốc Bourgogne, ngày 1 tháng 8 năm 1034,Gérard l’Alloborogie phục vụ quận công Bônifatiô của Toscane, một trong các thẩm phán quan có thế lực nhất của hoàng đế và đã cùng với ông này đi đến Italia.
Trong một chục năm, ông đã thực hiện những việc học tập quan trọng mà ông đã đeo đuổi ở Italia và có lẽ ngay cả ở Paris. Năm 1046, ông được bầu làm Giám mục Florentia.
Giáo hoàng
Ngày 28 tháng 12 năm 1058, ông được tấn phong Giáo hoàng tại Rôma. Ông đã được các hồng y bầu ở Sienna nhưng chính ông lại không phải là hồng y. Ông được bầu làm Giáo hoàng mà không cần đến sự chỉ định của hoàng đế Đức.
Cải tổ
Nicolaus II tiếp tục cuộc chiến đương đầu với lạc thuyết Nicôla. Ông thi hành những biện pháp đối với hàng giáo sĩ: kỷ luật các linh mục đã kết hôn hoặc chung sống ngoài hôn nhân, đồng thời cấm các tín hữu được tham dự thánh lễ do một linh mục đã kết hôn cử hành đồng thời yêu cầu những người đã có vợ phải bỏ vợ đi.
Trong phạm vi cái mà các sử gia gọi là a ponsteriori (hậu nghiệm) là cải cách của Gregorius, ông cấm việc bổ nhiệm các địa vị trong Giáo hội để thu tiền (buôn thần bán thánh); cấm các giáo sĩ lãnh nhận một nhà thờ từ tay của một giáo dân. Giáo dân bị cấm không được phong chức cho các Giám mục mà lại không có sự cho phép của Giáo hoàng.
Nicôla II cũng muốn các kinh sĩ trở về lại một kỷ luật nghiêm nhặt hơn, bằng cách áp đặt những bữa ăn chung và ban đêm ngủ ở phòng ngủ chung.
Sắc lệnh 1059
Ông triệu tập một Thượng Hội đồng Giám mục tại Roma, trong đó quy định chỉ Giám mục do Giáo hoàng chọn mới được tấn phong và chỉ những hồng y Giám mục mới được bầu chọn Giáo hoàng.
Ngày 13.4.1059 đức Nicolas II ban hành một sắc lệnh có tầm quan trọng căn bản, có thể bảo đảm về mặt pháp lý quyền độc lập của Giáo hoàng trong tương lai'':
Các giáo sĩ "cardinales" (từ chữ cardo: bản lề) trước tiên là những viên chức không thể bãi miễn của mỗi Giáo hội. Vào thế kỷ X và thế kỷ XI, người ta có thói quen dùng từ đó để chỉ những nhân vật chính trong Giáo hội, và ở Roma các nhân vật này có uy tín đặc biệt.
Có thể phân biệt các "hồng y-Giám mục"đứng đầu bảy địa phận rất gần Roma, các "hồng y-linh mục" phụ trách những nhà thờ lớn nhất của Roma (số lượng là hai mươi sáu nhà thờ vào thế kỷ XI), các "hồng y phó tế" gồm bảy người, thuộc bảy vùng giáo chức Roma trước khi trở thành viên chức cao cấp và cố vấn tòa thánh.
Đáng lưu ý là vào đầu thế kỷ XI, các hồng y chưa hợp thành hồng y đoàn. Thực chất hồng y đoàn thế kỷ X chỉ là hàng giáo sĩ Roma khoảng 40 vị: 7 hồng y Giám mục, 7 hồng y phó tế, còn lại là các hồng y linh mục.
nhỏ|Giáo hoàng Nicôla II (phải) trong một bước bích họa vào thế kỷ 12 tại Vuơng cung Thánh đường Thánh Clemente ở Roma, Ý.
Nhờ quyết định này, đức Nicolas II đưa việc bầu cử thành quy luật dành riêng cho hồng y đoàn, sự tuyển cử Giáo hoàng không còn ở tay hoàng đế nữa, nhưng do các Hồng y. Cũng từ đây trở đi, trừ ra một ít trường hợp (các Giáo hoàng đóng tại Avignon), còn thì các Giáo hoàng đều được lực chọn trong vòng Giáo phẩm La Mã. Tuy nhiên để thực hiện công cuộc cải cách vừa lớn lao vừa can đảm này đã dành cho hai vị Giáo hoàng Lêô IX (1049-1054) và Gregory VII (1073-1085).
Giáo hoàng Nicôla II đến nam Italia và nhận lời thề trung thành của các ông hoàng Normanđi là Richard I d’Aversa và Robert Guiscard để đổi lấy sự trao chức của họ và sự trung thành của họ. Giáo hoàng tin cậy vào sự ủng hộ của Normanđi để cân bằng với sức mạnh của đế quốc.
Công đồng Latran I
Năm 1060, ông triệu tập Công đồng Latran I ở Rôma và nhắc lại lệnh cấm các nước tham chiến tấn công các du khách, các giáo sĩ, các tu sĩ và những người nghèo khổ.
Một trong những người viết tiểu sử ông đã viết về ông: Văn chương là quen thuộc với ông, tài trí ông sáng rực sự sắc sảo; những bố thí của ông không biết đâu là bờ bến; sự trong sáng của ông vượt trên mọi sự nghi ngờ. Tôi phải gọi tên tất cả mọi nhân đức để miêu tả thực chất con người này, thực sự là của Thiên chúa.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nicôla II** (Latinh: **Nicolau II**) được coi là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IX sau khi Giáo hoàng giả Benedict IX bị truất phế. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Ađrianô II** (Latinh: **Adrianus II**) là vị giáo hoàng thứ 106 của Giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Nicholas I sau khi vị Giáo hoàng này qua đời vào 13
**Nicôla V** (Latinh: **Nicolaus V**) là vị Giáo hoàng thứ 207 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1447 và ở ngôi
**Giáo hoàng đối lập Hônôriô II**, còn gọi là **Honorius II** (qua đời năm 1072) tên thật là **Pietro Cadalus** là một giáo hoàng đối lập từ năm 1061 – 1072. Ông sinh tại Verona
**Nicôla IV** (Latinh: **Nicolaus IV**) là vị giáo hoàng thứ 191 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1288 và ở ngôi Giáo
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Gioan XXII** (Latinh: **Joannes XXII**) là vị Giáo hoàng thứ 196 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1313 và ở ngôi Giáo
**Cêlestinô V** (Latinh: **Celestinus V**) là vị Giáo hoàng thứ 192 của giáo hội công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn lên hàng hiển thánh sau khi qua đời. Theo niên giám tòa
**Gioan VIII** (Latinh: **Joannes VIII**) là vị giáo hoàng thứ 107 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 872 và ở ngôi
**Giáo hoàng Innôcentê XI** (Tiếng Latinh: _Innocentius XI_, tiếng Ý: _Innocenzo XI_) tên khai sinh là **Benedetto Odescalchi**, là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội Công giáo và là người cai trị Lãnh
**Ludovicus II** (, , ; 825 - 12 tháng 8 năm 875), đôi khi được gọi là **Ludovicus Trẻ** (, , , ), là vua của Ý và hoàng đế của Đế chế Caroling từ
**Công đồng Lateran II** do giáo hoàng Innôcentê II triệu tập năm 1139. Có khoảng 1.000 tham dự viên họp trong tháng 4, để lên án việc ly giáo của Anacletus. Công đồng Lateran II
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
**Nicôla Huỳnh Văn Nghi** (1927–2015) là một Giám mục Công giáo người Việt, từng giữ chức Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài Gòn, rồi Giám mục chính tòa Giáo phận Phan Thiết và
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Giáo phận vương quyền Liege** hay **Thân vương quốc Liege**, **Công quốc Liege**, là một lãnh địa giáo phận vương quyền trong Đế quốc La Mã Thần thánh với lãnh thổ nằm phần lớn trong
phải|nhỏ|Sultan [[Mehmed II cùng đoàn binh chiến thắng tiến vào thành Constantinopolis]]**Thành phố Constantinople**, kinh đô của Đế chế Đông La Mã, sụp đổ sau một cuộc vây hãm của Đế chế Ottoman kéo dài
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Giuse Maria Trịnh Văn Căn** (19 tháng 3 năm 1921 – 18 tháng 5 năm 1990) là một hồng y và dịch giả Công giáo người Việt Nam. Ông cũng là Tổng giám mục thứ
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
Dưới đây là **danh sách các quốc vương trị vì trên lãnh thổ Sicilia** kể từ khi quốc gia này còn là một bá quốc cho đến "sự hợp nhất hoàn hảo" vào Vương quốc
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**Zenon Grocholewski** (1939–2020) là một Hồng y người Ba Lan của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng trưởng Thánh bộ Giáo dục Công giáo của Tòa Thánh, nguyên Tổng Thư kí và
**Phêrô Nguyễn Văn Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938) là một hồng y, giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận tước vị Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ
**Miloslav Vlk** (1932–2017) là một Hồng y người Séc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ S. Croce in Gerusalemme, Tổng giám mục
**Nicholas xứ Kues** hay **Nicolaus Cusanus** hoặc **Nicholas xứ Cusa** (1401-1464) là nhà triết học, nhà thiên văn học, nhà thần học, tu sĩ người Đức. Ông tin tưởng ở một hình thức của thuyết
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Trận Dyrrhachium** (ngày nay gần Durrës ở Albania) là một trận đánh diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 1081, giữa quân đội Đông La Mã do Hoàng đế Alexios I Komnenos chỉ huy
**Dòng Anh Em Hèn Mọn** (tiếng Latinh: _Ordo Fratrum Minorum_) là một dòng tu Công giáo Rôma, và là nhánh chủ yếu và nổi bật nhất trong nhóm các Dòng Phanxicô. Dòng Anh Em Hèn
**Bản giao hưởng số 9** của nhà soạn nhạc Áo Anton Bruckner (tiếng Anh: /ˈbrʌknər/) (1824-1896) viết ở giọng Rê thứ, ôput WAB 109, được ông ghi "_dem lieben Gott_" (tặng Chúa kính yêu). Nhạc
Ngày **27 tháng 7** là ngày thứ 208 (209 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 157 ngày trong năm. ## Sự kiện *1694 – Ngân hàng Anh được trao cho "đặc hứa trạng hoàng
nhỏ|Dùi nghị sự là tượng trưng của nghị sự học. **Trình tự nghị sự** là quy tắc kì họp cơ bản được sắp đặt cố định trên tinh thần dân chủ, bình đẳng, tự do
**Nhà thờ chính tòa Siena** () là một nhà thờ có từ thời trung cổ ở Siena, Ý, hiến đâng từ những ngày đầu như là một nhà thờ Công giáo La Mã Maria, và
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
**Phaolô Nguyễn Thanh Hoan** (1932–2014) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam Ông từng đảm nhận nhiệm vụ giám mục tại Giáo phận Phan Thiết trong hai giai đoạn
nhỏ|frameless|Chữ ký **Maria Têrêsa Bojaxhiu** (còn được gọi là **thánh Têrêsa thành Kolkata**; tên khai sinh là **Anjezë Gonxhe Bojaxhiu**; ; 26 tháng 8 năm 1910 – 5 tháng 9 năm 1997), được biết đến rộng
nhỏ|_La Visione di San Domenico_ (), tranh của [[Bernardo Cavallino (1640)]] **Kinh Mân Côi** là một phương pháp cầu nguyện phổ biến và quan trọng của Giáo hội Công giáo Rôma. Bài kinh này bao
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
thumb|right|Chiến dịch được đặt tên theo [[cầu Luân Đôn.]] **Chiến dịch Cầu Luân Đôn** (Tiếng Anh: Operation London Bridge) là mật danh chỉ kế hoạch những gì sẽ diễn ra sau khi Nữ hoàng Elizabeth
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
_Giáo hoàng Xíttô IV bổ nhiệm Bartolomeo Platina làm Quản thủ Thư viện Vatican_, tranh fresco của [[Melozzo da Forlì, 1477, nay ở viện bảo tàng Vatican.]] **Thư viện Vatican**, tên chính thức là **Thư