thumb|[[Cầu Alcántara ở Tây Ban Nha, một kiệt tác xây dựng thời cổ đại.]]
Cầu La Mã là loại cầu được xây dựng bởi người La Mã cổ đại, là những cây cầu lớn và lâu dài đầu tiên được xây dựng. Cầu La Mã được xây dựng bằng đá và có vòm là cấu trúc cơ bản. Bê tông được sử dụng nhiều vì chất lượng tốt, cũng là việc sử dụng bê tông đầu tiên cho một công trình xây dựng là cầu.
Danh sách các cây cầu La Mã do kỹ sư Colin O'Connor chọn, liệt kê 330 cây cầu đá La Mã được dùng lưu thông, 34 cây cầu gỗ La Mã và 54 cây cầu dẫn nước La Mã, một phần đáng kể trong số chúng vẫn còn đến nay và thậm chí được sử dụng cho phương tiện vận tải. Một cuộc khảo sát đầy đủ hơn của học giả người Ý Vittorio Galliazzo đã liệt kê 931 cây cầu La Mã, chủ yếu bằng đá, nằm ở 26 quốc gia (bao gồm cả Nam Tư cũ; xem bảng bên phải, ở dưới).
Kiểu cầu
|-
| colspan=2 |
|-
| colspan=2 |
|-
! Tổng cộng
! 931
|}
thumb|left|[[Pons Fabricius ở Rome, Italy]]
thumb|left|Cầu phao La Mã bắc qua sông [[Danube]]
Cũng giống như hầm và mái, người La Mã là những người đầu tiên nhận ra đầy đủ ích lợi của các vòm trong một công trình cầu.
nhỏ|[[Pont du Gard là một phần của hệ thống máng dẫn nước (aqueduc) do đế chế La Mã xây dựng từ thế kỉ 1 và tồn tại gần như nguyên vẹn đến ngày nay,]]
Cầu vòm La Mã thường có hình bán nguyệt, mặc dù một số ít là phân đoạn của một cây cầu (như cầu Alconétar). Một vòm phân đoạn là một vòm ít hơn một hình bán nguyệt. Ưu điểm của cây cầu vòm phân đoạn là nó cho phép một lượng lớn nước lũ chảy qua bên dưới, điều này sẽ ngăn cây cầu bị cuốn trôi trong trận lụt và cũng là để khối lượng cây cầu nhẹ hơn. Nhìn chung, các cây cầu La Mã có vòm chính hình nêm (voussoirs) có cùng kích thước và hình dạng. Người La Mã đã xây dựng cả hai nhịp đơn và nhiều cống vòm dài, như cầu Pont du Gard và cầu Segovia Aqueduct chẳng hạn. Những cây cầu của họ nổi bật trong thời kỳ ban đầu vì có thể mở cửa lũ, ví dụ như Pons Fabricius ở Rome (62 trước Công nguyên), đó là một trong những cây cầu lớn lâu đời nhất thế giới vẫn còn tồn tại. Các kỹ sư La Mã là những người đầu tiên cho đến trước khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ là những thợ xây duy nhất xây dựng những cây cầu bằng bê tông, mà họ gọi là opus caementicium. Bên ngoài thường được phủ bằng gạch hoặc đá, chẳng hạn như cây cầu Alcántara.
Người La Mã cũng xây dựng cầu vòm phân đoạn trong các công trình kiến trúc cầu của họ. Cầu Limyra dài 330 m nằm ở phía tây nam Thổ Nhĩ Kỳ có 26 vòm phân đoạn với tỷ lệ nhịp tăng trung bình là 5.3:1, tạo cho cây cầu một mặt phẳng bất thường vượt trội trong hơn một thiên niên kỷ. Cây cầu Trajan bắc qua sông Danube nổi bật với các vòm phân đoạn mở rộng làm bằng gỗ (dựng đứng trên các trụ bê tông cao 40 m). Đây là cây cầu vòm dài nhất trong một nghìn năm cả về chiều dài nhịp và tổng chiều dài, trong khi cây cầu La Mã còn tồn tại dài nhất là Puente Romano dài 790 m tại Mérida.
Cây cầu La Mã Karamagara ở Cappadocia có thể là cây cầu còn sót lại và cũng là sớm nhất của loại cầu có hình vòm nhọn.
Hình dạng vòm
Những cầu vòm thời La Mã cổ đại chịu ảnh hưởng của quan niệm cổ xưa về hình dạng lý tưởng của vòng tròn, nhất là một vòng tròn đầy đủ, với vòm đá tiếp nối dưới lòng đất. Một ví dụ điển hình là cầu Pons Fabricius ở Rome. Do đó, các cây cầu La Mã được xây chủ yếu với các vòm hình bán nguyệt, hoặc, ở mức độ thấp hơn là vòm phân đoạn. Các thiết kế vòm phân đoạn tập trung ở Đông Bắc nước Ý, nhưng cầu kiểu này cũng nằm rải rác trên toàn bộ đế chế, như Cầu Limyra, Cầu Alconétar và Ponte San Lorenzo là những ví dụ điển hình. Ngoài ra, còn có một số cầu xây theo kiểu dạng vòm khác, trong một số trường hợp do chỉ còn là phế tích nên rất khó xác định. Sau thời cổ đại, các cầu xuất hiện dạng vòm nhọn.
Các đặc điểm điển hình
thumb|[[Puente Romano, Mérida, Tây Ban Nha. Với chiều dài tổng thể 792 m và vẫn đang được sử dụng, là cây cầu La Mã lớn nhất còn sót lại.]]
Nhiều cầu rộng hơn 5 mét
Hầu hết trong số đó có độ dốc nhẹ
Nhiều cầu xâu theo kiểu Rustication
Nhiều cầu xây theo kiểu có xen kẽ một lớp đá hình chữ nhật được đặt theo chiều dọc và lớp tiếp theo có các đầu hướng ra ngoài
Đá liên kết với điểm khớp nối hoặc thanh kim loại
Được thụt vào đá để giữ các công cụ kẹp
(Nguồn [https://web.archive.org/web/20080528061612/http://traianus.rediris.es/ Traianus] - Một nỗ lực để xác định Cầu La Mã được xây dựng ở Hispania)
Opus pontis
Chi phí xây dựng và sửa chữa cầu, được gọi là opus pontis ("công trình cầu"), là trách nhiệm chung của các đô thị địa phương. Chi phí chung của họ minh chứng cho việc các cây cầu La Mã thuộc về khu vực chung, và không thuộc về một thị trấn nào (hoặc cả hai, nếu ở trên biên giới). Cầu Alcántara ở Lusitania như một ví dụ, được xây dựng tại với chi phí của 12 đô thị địa phương, tên họ đã được thêm vào một dòng chữ. Về sau, trong Đế chế La Mã, các lãnh chúa địa phương của các vùng đất đã phải đóng tiền thập phân cho đế chế để sử dụng cho opus pontis. Người Anglo-Saxon bắt chước điều này với bricg-geworc.
Những cầu điển hình
thumb|upright|[[Cầu Pont-Saint-Martin, Ý.]]
Được xây dựng vào năm 142 trước Công nguyên, cầu Pons Aemilius sau này được đặt tên là Ponte Rotto (cây cầu gãy), là cây cầu đá La Mã cổ nhất ở Rome, Ý.
Cây cầu La Mã lớn nhất là cây cầu Trajan bắc qua sông Danube, được xây dựng bởi Apollodorus của Damascus, tồn tại trong suốt một thiên niên kỷ, cây cầu dài nhất được xây dựng cả về tổng chiều dài và chiều dài nhịp. Cầu cách mặt nước ít nhất 2 mét.
Một ví dụ về cầu quân sự tạm thời là Cầu sông Rhein của Caesar.
Cầu lớn trên sông
Kỹ sư La Mã xây dựng cầu vòm đá hoặc cầu đá trụ trên các con sông chính trên khắp đế chế của họ, trong đó: Euphrates nằm ở biên giới với đế chế Ba Tư thù địch, và trên sông Nile, con sông dài nhất trên thế giới, được 'cầu nối' vào cuối năm 1902 bởi Old Aswan Dam.
Những con sông lớn nhất được bắc qua bởi những cây cầu vững chắc của người La Mã như cầu trên sông Danube và sông Rhine, hai con sông lớn nhất châu Âu. Vùng hạ lưu sông Danube có ít nhất hai cầu (Cầu Trajan, Cầu Constantine), trung và hạ lưu của sông Rhine bởi bốn cây cầu khác nhau (Cầu La Mã tại Mainz, Cầu sông Rhein của Caesar, Cầu La Mã tại Koblenz, Cầu La Mã ở Cologne). Đối với các dòng sông có nước chảy mạnh, nhằm phục vụ quân đội vượt sông nhanh chóng, cầu phao cũng được sử dụng thường xuyên. Xuất phát từ việc thiếu hồ sơ lịch sử về những cây cầu đá tiền hiện đại bắc qua những con sông lớn, kỳ tích của người La Mã được ghi nhận là dường như không thể vượt qua ở bất cứ nơi nào trên thế giới cho đến tận thế kỷ 19.
Ảnh
Tập tin:Trier-Römerbrücke.01.jpg|Römerbrücke ở Trier, Đức
Tập tin:Pont Julien, Apt, Vaucluse, France. Pic 04.jpg|Pont Julien ở Apt, Pháp
Tập tin:Roman Bridge, Vaison-la-Romaine, France. Pic 02.jpg|Cầu La Mã ở Vaison-la-Romaine, Pháp
File:Acueducto Segovia noche.JPG|Cầu máng Segovia
Tập tin:Ambrussum pont Ambroix.JPG|Pont Ambroix, Pháp
Tập tin:Ponte St. Angelo.jpg|Ponte Sant'Angelo ở Rome, Ý
Tập tin:Ponte Milvio-side view-antmoose.jpg|Ponte Milvio ở Rome, Ý
Tập tin:Ponte Pietra a Verona.jpg|Ponte Pietra ở Verona, Ý
Tập tin:Ponte Rotto, Rome, Italy. Pic 03.jpg|Pons Aemilius ở Rome, Ý
Tập tin:Puente de Alconétar, Cáceres Province, Spain. Pic 08.jpg|Puente de Alconétar, Tây Ban Nha
Tập tin:Eurymedon Bridge, Selge, Turkey. Pic 06.jpg|Cầu Eurymedon ở Selge, Thổ Nhĩ Kỳ
Tập tin:Bridge near Limyra. Pic 02.jpg|Cầu Limyra, Thổ Nhĩ Kỳ
Tập tin:Aoste, roman bridge - i.jpg|Pont de Pierre (Aosta), Aosta Valley, Ý
Tập tin:Severan Bridge, Turkey 02.jpg|Cầu Severan, Thổ Nhĩ Kỳ
Tập tin:Caldas de Reis-Ponte Romano.JPG|Cầu Bermaña, ở Caldas de Reis, Tây Ban Nha
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|[[Cầu Alcántara ở Tây Ban Nha, một kiệt tác xây dựng thời cổ đại.]] **Cầu La Mã** là loại cầu được xây dựng bởi người La Mã cổ đại, là những cây cầu lớn và
**Cầu La Mã** () là cây cầu vòm xây theo lối kiến trúc cổ bắc qua sông Moselle, tại Trier, Đức. Đây là cây cầu đứng cổ nhất tại đất nước này. Chín cột trụ
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
Bài này viết về một nền văn minh cổ đại. Liên quan đến thành La Mã cổ đại, vui lòng xem Trung tâm lịch sử thành Roma.
**La Mã cổ đại** là nền văn
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Cuộc chinh phục Britannia của La Mã** là một quá trình diễn ra dần dần, bắt đầu có kết quả vào năm 43 dưới thời hoàng đế Claudius, và viên tướng của ông, Aulus Plautius
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Luật La Mã** là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật _Pháp điển Dân sự_
**Heinrich IV** (11 tháng 11 năm 1050 – 7 tháng 8 năm 1106) là con trai đầu của hoàng đế Heinrich III và nữ hoàng Agnes. Ông là Vua La Mã Đức từ năm 1056,
[[Đấu trường La Mã ở Ý.]] nhỏ|[[Cầu máng ở Segovia, Tây Ban Nha]] phải|nhỏ|trái|[[Pont du Gard (Cầu Gard), máng dẫn nước cổ miền Nam nước Pháp]] nhỏ|Thánh đường Severan Basilica ở [[Leptis Magna]] **Kiến trúc
nhỏ|Đồng solidus của Constantinus khoảng 407–408 đúc tại Lyon, với mặt sau là hình Constantinus cầm trên tay quân kỳ hoàng đế (Labarum) và quả cầu chiến thắng đang giẫm trên người một nô lệ
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Tường thành La Mã ở Lugo** (tiếng Tây Ban Nha, Galicia: _Muralla Romana de Lugo_) là hệ thống tường thành được xây dựng trong thế kỷ thứ 3 và hầu như vẫn còn nguyên vẹn
_Sói cái với [[Romulus và Remus_, tác phẩm điêu khắc của Francesco Biggi và Domenico Parodi tại Palazzo Rosso của Genova, Ý ]] Sói cái trên đồng xu của nước cộng hòa La Mã sau
**Lính Lê dương La Mã** là những người lính chuyên nghiệp trong quân đội La Mã cổ đại sau những cải cách của Marius năm 107 TCN. **Lính Lê dương La Mã** phải là công
nhỏ| Bức tranh _Lời cầu nguyện cuối cùng của những người tuẫn đạo Cơ Đốc giáo_ do [[Jean-Léon Gérôme vẽ vào năm 1883.]] **Đế quốc La Mã** **đàn áp Cơ Đốc giáo** (chữ Anh: _Persecution
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Eurymedon** () là một cây cầu La Mã bắc qua sông Eurymedon gần Selge tại Pisidia, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ. Cầu có chiều dài 14 m, rộng 3.5 m, là một phần của con đường quanh
**Thời La Mã cổ đại**, nông nghiệp rất được coi trọng. Virgil trong tác phẩm _Georgica_ đã cho rằng nông thôn được là nơi con người có đức hạnh nhất, được ưu ái nhất. Cicero
**Viện nguyên lão** là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là một tổ chức lâu dài nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập trong những ngày đầu tiên
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
**Công trường La Mã** (tiếng Latinh: _Forum Romanum_, tiếng Ý: _Foro Romano_) là một quảng trường chữ nhật được bao quanh bởi các tàn tích kiến trúc cổ đại quan trọng ở trung tâm thành
**La Mã hóa** hoặc **Latinh hóa** (tiếng Anh: _Romanization_ hay _Latinization_) là một thuật ngữ về ý nghĩa văn hóa và lịch sử đều biểu thị quá trình tiếp nhận nền văn hóa La Mã
**Ferdinand II** (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1578 – mất ngày 15 tháng 2 năm 1637) một thành viên của Gia tộc Habsburg là Hoàng đế của Thánh chế La Mã (1619–1637), Vua của
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
thumb|Huy hiệu của [[Joseph II của Thánh chế La Mã|Joseph II, vị _Quốc vương của người La Mã_ cuối cùng được biết đến.]] **Vua của người La Mã** (), hay **Vua La Mã Đức** (),
Đế quốc La Mã dưới triều đại [[Hadrianus (cai trị từ 117-38), cho thấy tỉnh hoàng đế Thracia nằm ở đông nam châu Âu.]] [[Giáo khu La Mã của Thraciae.]] **Thracia** (tiếng Hy Lạp: Θρᾴκη,
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
thumb|[[Tranh khảm La Mã|Tranh khảm (220–250) được tìm thấy tại El Djem, Tunisia (Phi Lợi Gia thuộc La Mã). Trên đây viết dòng chữ Latinh "Im đi! Để lũ trâu ngủ" _(Silentiu[m] dormiant tauri)_ và
**Hiến pháp Cộng hòa La Mã** là một tập hợp các quy phạm xã hội và tập tục chưa được pháp điển hóa, cùng nhiều loại luật La Mã thành văn khác, tạo nên khung
thumb|Cách sắp xếp chỗ ngồi tại lễ khánh thành Đại hội Đế quốc trong Toà thị chính [[Regensburg từ bản khắc năm 1675: Hoàng đế La Mã Thần thánh và các Tuyển đế hầu ngồi
**_The History of the Decline and Fall of the Roman Empire_** (tạm dịch _Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã_) là một bộ sách về lịch sử Đế quốc La
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba