✨Hiến Ai Vương hậu

Hiến Ai Vương hậu

Hiến Ai Vương hậu (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay Thiên Thu Vương thái hậu (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời là chị/em họ của Cao Ly Cảnh Tông, mẹ ruột của Cao Ly Mục Tông. Bà cũng là cháu nội của người sáng lập nên nhà Cao Ly - Cao Ly Thái Tổ.

Lịch sử

Thuở nhỏ

Không rõ tên thật của bà. Bà là con gái của vương tử Vương Húc (왕욱), về sau được truy tôn là Cao Ly Đới Tông, và vợ đồng thời là em gái cùng cha khác mẹ với ông ta là Tuyên Nghĩa Vương hậu.

Anh ruột của bà là Cao Ly Thành Tông, quốc vương thứ sáu của Cao Ly, và em gái ruột của bà là Hiến Trinh Vương hậu. Do cha mẹ mất sớm nên ba anh em bà sống cùng với bà nội là Thần Tĩnh Vương thái hậu. Tuy mang dòng máu hoàng tộc của họ Vương nhưng bà và người em gái là Hiến Trinh Vương hậu (cũng là vợ thứ của Cảnh Tông, thông gian với Cao Ly An Tông sinh ra Cao Ly Hiển Tông) lại lấy họ Hoàng Phủ của bà nội, tức Thần Tĩnh Vương thái hậu Hoàng Phủ thị (신정왕태후 황보씨; 900 – 983), điều này khiến cho họ có thể kết hôn với những người anh họ cùng cha khác mẹ của mình trong hoàng tộc họ Vương của Cao Ly nhằm duy trì huyết thống hoàng gia.

Vương hậu của Cao Ly Cảnh Tông

Năm 979, khi mới 15 tuổi, bà cùng em gái là Hiến Trinh Vương hậu (khi đó mới 13 tuổi) được gả cho vua Cao Ly Cảnh Tông (anh họ của bà). Không lâu sau đó, Hiến Ai Vương hậu có thai và người ta cho rằng Cao Ly Cảnh Tông đã rất vui mừng vì ông ta không có người thừa kế nào từ hai hoàng hậu trước đó (Hiến Túc Vương hậu và Hiến Ý Vương hậu): việc thiếu người thừa kế là một điều đáng lo ngại nên khi Hiến Ai Vương hậu mang thai, Cao Ly Cảnh Tông trở nên yêu thích Hiến Ai Vương hậu hơn.

Sang ngày 5 tháng 7 năm 980, bà sinh người con trai duy nhất của bà với vua Cao Ly Cảnh Tông là Vương Tụng, điều đó khiến cho Cao Ly Cảnh Tông càng vui mừng hơn. Năm 981, vua Cao Ly Cảnh Tông qua đời, người con trai duy nhất của ông ta là Vương Tụng khi đó chỉ mới 1 tuổi nên một tông thất khác là Vương Trị đã kế vị, tức là vua Cao Ly Thành Tông, anh ruột của bà.

Sùng Đức công chúa

Vừa lên ngôi vua, vua Cao Ly Thành Tông đã phong cho bà thành Sùng Đức công chúa. Sau đó bà bị Cao Ly Thành Tông buộc phải rời khỏi hoàng cung Khai Thành và sống bên ngoài Khai Thành cùng con trai bà là Vương Tụng.

Cao Ly Thành Tông đã tiến hành cải cách tại Cao Ly và tạo lập vương quốc thành một chế độ quân chủ tập trung trên nền tảng Nho giáo vững chắc. Ông ta đã nhấn mạnh sự trong sạch và khiết tịnh đối với hai em gái của mình là Sùng Đức công chúa và Hiến Trinh Vương hậu.

Năm 990, Cao Ly Thành Tông phong cho con của bà là Vương Tụng (khi đó mới 10 tuổi) làm người kế vị của mình do ông ta không sinh được con trai. Vương Tụng được Cao Ly Thành Tông sai người đưa vào hoàng cung Khai Thành và nuôi dạy như con ruột của mình. Vợ thứ hai của Cao Ly Thành Tông là Văn Hòa Vương hậu Kim thị đã trực tiếp nuôi dạy Vương Tụng. Vương Tụng lớn lên cùng với Tuyên Chính Vương hậu như em trai với chị gái, Vương Tụng cũng được cho là thích đi theo Tuyên Chính Vương hậu vì bà ta đã chăm sóc ông ta từ khi còn nhỏ.

Lúc này, Sùng Đức công chúa gặp Kim Trí Dương (김치양, 金致陽, Kim Chi-yang), người đến từ gia tộc họ Kim ở Dongju và là họ hàng ngoại của Sùng Đức công chúa. Kim Trí Dương đã đi tu từ rất sớm nhưng sau đó vào cung bắt đầu mối quan hệ với Sùng Đức công chúa. Theo Cao Ly sử, dương vật của Kim Trí Dương đủ lớn để có thể dùng làm trục cho bánh xe ngựa. Điều này đã thu hút Sùng Đức công chúa. Thường xuyên gặp Kim Trí Dương, bà đến để thông cảm với ông ta. Hai người tư thông với nhau. Nhưng khi Cao Ly Thành Tông biết chuyện này của bà thì ra lệnh cấm bà và Kim Trí Dương gặp nhau. Tuy nhiên, bà vẫn bí mật gặp Kim Trí Dương, việc này khi lộ ra đã gây náo loạn trong cung, nhưng Cao Ly Thành Tông đã nhanh chóng kết thúc vụ bê bối này và trấn an người dân bằng cách tống Kim Trí Dương đi lưu đày.

Sau khi vua Cao Ly Thành Tông qua đời vào năm 997, con trai bà là Vương Tụng lên làm vua, tức là Cao Ly Mục Tông. Cao Ly Mục Tông được nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) chấp thuận. Bà được Cao Ly Mục Tông phong làm thái hậu ngự tại Thiên Thu sảnh (천추전, 千秋殿), Thiên Thu cung (천추궁, 千秋宮), nên được gọi là Thiên Thu Vương thái hậu (천추태후, 千秋太后). Cao Ly Mục Tông lập Tuyên Chính Vương hậu thành vương hậu của mình. Dù vua Cao Ly Mục Tông đã trưởng thành nhưng ông ta đã chọn bà làm nhiếp chính cho ông ta.

Thiên Thu Vương thái hậu

Cao Ly sử viết rằng:

: "Mục Tông là một vị vua có tính cách điềm tĩnh và mạnh mẽ, giỏi bắn cung và cưỡi ngựa, thích uống rượu và thích săn bắn. Tuy nhiên, ông không để ý đến việc triều chính."

Ngoài ra, còn có tin đồn rằng Cao Ly Mục Tông và Tuyên Chính Vương hậu đều thích thú với việc kê gian nên có vẻ như đây không phải là một cuộc hôn nhân tốt đẹp giữa hai vợ chồng và họ không có con. Thậm chí, Tuyên Chính Vương hậu có thể khiến ông ta lên ngôi do ảnh hưởng của gia tộc và có ảnh hưởng đáng kể về chính trị trong bối cảnh được Cao Ly Mục Tông sủng ái, cuộc sống cá nhân của bà ta cũng không mấy hạnh phúc. Cao Ly Mục Tông sau đó sủng ái một cung nữ trong hoàng cung họ Kim và tôn bà ta lên thành Yêu Thạch Trạch cung nhân (요석택궁인, 邀石宅宮人).

Trong khi Han In-gyeong và những người khác đã lãnh đạo một cuộc đảo chính để đánh đuổi Cao Ly Mục Tông và đưa Vương Tuân lên ngôi vua Cao Ly, Cao Ly Mục Tông đã biết được điều này và trừng phạt các thành viên của gia tộc Kim, nhưng sự chống đối lại Cao Ly Mục Tông ngày càng nhiều hơn.

Với tư cách là Thái hậu và nhiếp chính, Thiên Thu Vương thái hậu đã triệu nhân tình Kim Trí Dương từ nơi lưu đày vào hoàng cung Khai Thành và bổ nhiệm ông ta làm quan chức triều đình. Dưới sự bảo trợ của bà, Kim Trí Dương được thăng chức nhiều lần, từ chức vụ Thông sự xá nhân (통사사인; 通事舍人; t'ongsa sain) lên chức Hữu bộc xạ (우복야; 右僕射; u pogya) và Tam Ty sứ (삼사사; 三司使; samsa sa, vị trí phụ trách cả về tài chính và nhân sự), mang lại quyền lực to lớn. Kim Trí Dương đã sử dụng quyền lực của mình để đưa các thành viên thuộc phe chính trị của mình vào triều đình Cao Ly, chẳng hạn như Lý Châu Trinh (이주정; 李周禎; Yi Chu-chŏng). Ngoài ra, Kim Trí Dương còn thực hiện chính sách ưu tiên Seogyeong, quê hương của Thiên Thu Vương thái hậu, xây dựng các ống dẫn và các đền thờ ở nhiều nơi, chẳng hạn như Tinh Túc tự (성수사, 星宿寺) ở Dongju, nơi sinh của Kim Trí Dương.

Tuy là Thái hậu và đang làm nhiếp chính cho vua Cao Ly Mục Tông, bà lại có nhân tình là Kim Trí Dương (金致陽). Hai người tư thông với nhau và có một người con trai vào năm 1003. Kim Trí Dương sau đó đã âm mưu đưa con trai của mình lên ngai vàng để kế vị Cao Ly Mục Tông, người đang không có con trai để kế vị sau này. Thấy Cao Ly Mục Tông không chịu nghe theo sự chỉ bảo của mình, Thiên Thu Vương thái hậu đã thống nhất với Kim Trí Dương rằng bà sẽ đưa con trai của hai người lên kế vị ngôi vua thay cho Cao Ly Mục Tông. Tuy nhiên, vì muốn bảo vệ ngôi vua cho anh họ mình, Vương Tuân đã đe dọa kế hoạch này của hai người. Vì lý do này, Thiên Thu Vương thái hậu và Kim Trí Dương đã nhiều lần cố gắng giết cháu trai của mình, Vương Tuân, vì ông ta là vật cản cho việc con trai nhỏ của họ lên ngôi, nhưng lần nào họ cũng thất bại.

Mặc dù sự ra đời của Vương Tuân không bình thường (kết quả của sự gian díu giữa Vương Uất và Hiến Trinh Vương hậu), nhưng cha của Vương Tuân cũng là con trai của người sáng lập Cao Ly, vì vậy Vương Tuân đã có thể sống dưới sự bảo vệ cao độ của Cao Ly Thành Tông khi nhà vua vẫn còn sống. Tuy nhiên, mạng sống của Vương Tuân bị đe dọa khi Cao Ly Thành Tông băng hà vì bạo bệnh. Ngay cả khi Cao Ly Mục Tông đã trưởng thành, Thiên Thu Vương thái hậu vẫn đóng vai trò nhiếp chính cho ông ta và cùng với Kim Trí Dương nắm giữ quyền lực lớn nhất trong triều đình. Trong khi đó, người ta tin rằng Thiên Thu Vương thái hậu đã ép Vương Tuân phát thề và rời khỏi hoàng cung Khai Thành bằng cách ép ông ta đi tu và cố gắng giết Vương Tuân bằng cách cử người nhiều lần truy lùng ông ta. Thời gian đó Thành Mục Trưởng công chúa (성목장공주, 成穆長公主) thường xuyên cùng Vương Tuân (em cùng cha khác mẹ với bà ta) đi chùa Hyeonhwa (현화사) để cầu nguyện cho cha mẹ của bà ta.

Cao Ly Mục Tông được ghi nhận là đã giữ một số wonchung ("nam tình nhân") trong triều đình của mình với tư cách là "những người em trai hầu cận" (chajewhi), những người phục vụ Cao Ly Mục Tông như bạn tình.

Cao Ly Mục Tông được nhớ đến vì âm mưu lật đổ ông ta của Thiên Thu Vương thái hậu và Kim Trí Dương. Thiên Thu Vương thái hậu và Kim Trí Dương tìm cách thay thế Cao Ly Mục Tông bằng đứa con của bà và Kim Trí Dương, người mà họ đã giới thiệu là con trai của vua Cao Ly Cảnh Tông (cha của Cao Ly Mục Tông). Cao Ly Mục Tông đã tìm cách ngăn cản việc này bởi vì con trai của họ lên ngôi vua Cao Ly thì có nghĩa là đã chấm dứt sự cai trị của dòng họ Vương ở Cao Ly. Tình hình còn phức tạp hơn nữa là tình trạng đồng tính luyến ái của Cao Ly Mục Tông, dẫn đến việc ông ta không có người thừa kế, và vấn đề tình dục của ông ta sẽ được dùng làm cái cớ cho việc lật đổ ngôi vua của ông ta. Bị các tướng còn trung thành với Cao Ly Mục Tông phản lại và bị quân đội của Khang Triệu tấn công. Đại quân của Kim Trí Dương bị đánh cho tan tác sau 3 ngày chiếm giữ Khai Thành. Khang Triệu đã cho tống giam Kim Trí Dương và đứa con 6 tuổi của hắn cùng những người ủng hộ hắn (trong đó có Lý Châu Trinh) vào tử lao. Sau đó Thiên Thu Vương thái hậu cùng Cao Ly Mục Tông và các tướng sĩ, văn võ bá quan, Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị, Yêu Thạch Trạch cung nhân Kim thị, người hầu mới trở về Khai Thành. Khang Triệu thăng chức cho thuộc cấp của mình là Lý Huyễn Vân lên làm Lại Bộ thị lang (이부시랑; 吏部侍郞; yibu shirang). Kết quả là Thiên Thu Vương thái hậu cũng bị lật đổ hoàn toàn khỏi chính trường Cao Ly.

Bị lưu đày, quay về Hoàng Châu và 2 lần tham gia kháng chiến chống quân Liêu xâm lược

Bị lưu đày và quay về Hoàng Châu

Sau cuộc đảo chính, Khang Triệu đã sáp nhập Trung Xu Viện (중추원; 中樞院; chungch'uwon), Ngân Đài (은대; 銀臺; Ŭndae), và Tuyên Huy Viện (선휘원; 宣徽院; sŏnhwiwŏn) vào Trung Đài Sảnh (中臺省; chungdaesŏng) mới được thành lập. Khang Triệu làm người đứng đầu Trung Đài Sảnh, và Lý Huyễn Vân, với tư cách là cấp phó, được bổ nhiệm làm phó trưởng ban.

Khang Triệu cho lưu đày Cao Ly Mục Tông, Tuyên Chính Vương hậu và Thiên Thu Vương thái hậu đến Chungju, phía nam của Cao Ly. Sau vụ tư thông với Kim Long Đại (김융대, Kim Yung-dae) và việc Cao Ly Mục Tông bị lưu đày, Yêu Thạch Trạch cung nhân Kim thị cũng không còn được ghi chép nữa.

Ngày 2 tháng 3 năm 1009, Khang Triệu cho xử tử Kim Trí Dương và con trai 6 tuổi hắn cùng đồng đảng của hắn (trong đó có Lý Châu Trinh). nơi sẽ giam giữ Cao Ly Mục Tông, Tuyên Chính Vương hậu và Thiên Thu Vương thái hậu. Sau đó, cuộc đời của Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị (vợ của Cao Ly Mục Tông) không được ghi lại trong sử sách nữa, nhưng người ta cho rằng bà ta đã bị giết cùng với Cao Ly Mục Tông. Sau khi chết, Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị được thờ trong đền thờ của Cao Ly Mục Tông và hai vợ chồng Cao Ly Mục Tông - Tuyên Chính Vương hậu được chôn cất trong Nghĩa lăng (의릉, 義陵), cùng với thụy hiệu Tuyên Chính được đặt cho bà ta.

Lúc này Khang Triệu cùng với các đồng minh của mình là Thôi Hàng (최항, 崔沆, Choe Hang), Chae Chung-sun đã đưa một tông thất là Vương Tuân (王詢, 왕순) lên ngôi, tức Cao Ly Hiển Tông. Ngay sau đó, Thiên Thu Vương thái hậu được trả tự do khỏi Chungju và bà đến sống ở Hoàng Châu.

Cuộc xâm lược của nhà Liêu những năm 1010 - 1011

Bản đồ quân đội nhà Liêu (đời vua [[Liêu Thánh Tông) xâm lược Cao Ly (đời vua Cao Ly Hiển Tông) năm 1010 - 1011.]] Mùa thu năm 1010, tận dụng thời cơ triều đình Cao Ly đang có tranh giành quyền lực khi Khang Triệu (Gang Jo) vừa giết vua Cao Ly Mục Tông, quân Khiết Đan nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) một lần nữa lại tấn công Cao Ly với lý do báo thù cho Cao Ly Mục Tông.

Quân Liêu do đích thân Liêu Thánh Tông chỉ huy tấn công lần đầu nhưng không chiếm được thành Hưng Hóa (Hueng hwa), nơi hai tướng Dương Quy (Yang Kyu) và Ha Kongchin cùng 3.000 quân Cao Ly trấn giữ. Sau 7 ngày chiến đấu mà không hạ nổi thành, Liêu Thánh Tông chia quân bao vây Hưng Hóa rồi đích thân dẫn đại quân Liêu với hơn 300.000 quân nam hạ. Dương Quy phái Ha Kongchin về kinh đô Khai Thành báo tin quân Liêu nam hạ. Khi đó Dương Quy chỉ còn 700 quân Cao Ly giữ thành Hưng Hóa.

Quân Liêu đến Dongju (nay là Sonchon, Triều Tiên) giao tranh với Khang Triệu (Gang Jo), Hành dinh đô thống phó sứ Lý Huyễn Vân (Yi Hyon-un) và Binh bộ thị lang Trương Diên Hựu (Jang Yeonu) cùng 300.000 quân Cao Ly. Trương Diên Hựu (Jang Yeonu) thì dẫn tàn quân Cao Ly của mình chạy về kinh đô Khai Thành thay vì rút về thành Dongju. Thành Dongju còn khoảng vài ngàn lính Cao Ly nhưng vẫn kiên cường phòng thủ trước các cuộc tấn công của quân Liêu.

Khang Triệu và Lý Huyễn Vân bị giải đến trước mặt Liêu Thánh Tông. Liêu Thánh Tông yêu cầu cả hai người phục vụ cho nhà Liêu. Lý Huyễn Vân nhận lời quy hàng nhà Liêu và nói với Liêu Thánh Tông rằng: "Bây giờ thuộc hạ đã tận mắt nhìn thấy mặt trời mới sáng ngời, làm sao còn kiên trì nghĩ đến suối núi xưa?". Còn Khang Triệu đã từ chối đầu hàng vua Liêu Thánh Tông nhưng Liêu Thánh Tông không vội giết ông ta, chỉ giam cầm ông ta lại. Liêu Thánh Tông sau đó cử Lô Tiễn (노전, 盧戩), một tướng Cao Ly bị bắt cùng Khang Triệu, cùng với sắc lệnh giả mạo của Khang Triệu yêu cầu Dương Quy ở thành Hưng Hóa hãy dâng thành quy hàng quân Liêu. Dương Quy từ chối và ông ta nói rằng ông ta chỉ nhận lệnh từ nhà vua Cao Ly chứ không phải từ Khang Triệu. Liêu Thánh Tông sai người đi lan truyền việc Khang Triệu đã bị bắt sống để làm giảm nhuệ khí của thành Dongju và thành Hưng Hóa. Tuy nhiên Dương Quy ở thành Hưng Hóa và vài ngàn quân Cao Ly ở thành Dongju vẫn từ chối đầu hàng quân Liêu.

Liêu Thánh Tông sau đó bỏ qua thành Dongju (khi đó chỉ còn 1.000 quân Cao Ly giữ thành) mà tiến về phía nam, lần lượt đánh chiếm Quách Châu (Gwakju, nay là Chongju, Triều Tiên), Anbukbu, An Nhung (Anyung), Mingju, Sukju và Jaju, sau đó tiến đến thành Seogyeong (nay là Bình Nhưỡng, Triều Tiên). Do bị tướng Tak Sachong phản bội không chi viện, Đại Đạo Tú (khi đó đã hơn 70 tuổi, con trai của thái tử Đại Quang Hiển, hậu duệ dời thứ 11 của Đại Dã Bột - đệ của Bột Hải Cao Vương) bị quân Liêu bắt sống, thành Seogyeong cũng bị quân Liêu công hạ. Tak Sachong dẫn đội quân Cao Ly của hắn chạy về kinh đô Khai Thành báo tin.

Quân Liêu nhanh chóng nam hạ tiến đánh đến Hoàng Châu - nơi Thiên Thu Vương thái hậu đang sinh sống. Thiên Thu Vương thái hậu đã lãnh đạo dân quân tại Hoàng Châu đứng lên chống trả lại quân Liêu rất ác liệt. Quân Cao Ly từ Haeju cũng đến Hoàng Châu chi viện cho Thiên Thu Vương thái hậu chống Liêu, nhưng do lực lượng mỏng hơn nên Thiên Thu Vương thái hậu phải rút lui khỏi Hoàng Châu. Quân Liêu chiếm đóng Hoàng Châu rồi tiếp tục nam hạ đánh chiếm Tongju. Sau đó quân Liêu đánh chiếm Pyongju - cửa ngõ của kinh đô Khai Thành.

Tướng Cao Ly là Dương Quy dẫn 700 quân Cao Ly từ thành Hưng Hóa và tập hợp lại với 1.000 tàn quân Cao Ly của Khang Triệu tại thành Dongju. Với đội quân tổng hợp 1.700 người, Dương Quy đã tiến về phía nam đánh bại 6.000 quân Liêu đang đóng tại thành Quách Châu (곽주, 郭州, Gwakju, nay là Chongju, Triều Tiên). Dương Quy đã tái chiếm lại Quách Châu, cắt đứt con đường rút lui của quân Liêu. Dương Quy còn cứu thoát 7.000 tù binh Cao Ly đang bị giam trong thành Quách Châu và di dời họ đến thành Dongju ở phía tây bắc. Khương Hàm Tán (Gang Gam-han) đã thúc giục vua Cao Ly Hiển Tông trốn khỏi cung điện Khai Thành (Kaesong), không đầu hàng quân Liêu xâm lược. Cao Ly Hiển Tông làm theo lời khuyên của Khương Hàm Tán và trốn thoát khỏi kinh đô đang bốc cháy. Liêu Thánh Tông dẫn đại quân Liêu liên tục đuổi theo nhằm bắt giữ Cao Ly Hiển Tông. Cao Ly Hiển Tông, Khương Hàm Tán, Trương Diên Hựu, Tak Sachong và Ha Kongchin cùng triều đình Cao Ly phải tản ra đi theo nhiều hướng khác nhau. Trong đó Cao Ly Hiển Tông, Nguyên Trinh Vương hậu Kim thị, Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị đi cùng với Khương Hàm Tán, Trương Diên Hựu.

Quân Liêu do Liêu Thánh Tông chỉ huy tiếp tục truy đuổi xuống tận phía nam và bắt được nhiều nhóm quan lại, tướng sĩ, cung nữ Cao Ly. Thiên Thu Vương thái hậu dẫn quân đội Cao Ly của mình chặn đánh quân Liêu và cứu được nhiều nhóm quan lại, tướng sĩ, cung nữ Cao Ly khỏi tay người Liêu. Sau đó quân Liêu bắt kịp toán quân của Cao Ly Hiển Tông, Khương Hàm Tán và Trương Diên Hựu tại Chungju. May mắn là Thiên Thu Vương thái hậu đã xuất hiện và cứu được Cao Ly Hiển Tông khỏi sự tấn công của người Liêu. Cao Ly Hiển Tông cùng Thiên Thu Vương thái hậu, Nguyên Trinh Vương hậu Kim thị, Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị, Khương Hàm Tán và Trương Diên Hựu di chuyển sâu về phía nam đến tận thành Naju.

Sau nhiều lần từ chối đầu hàng vua Liêu Thánh Tông, cuối cùng Khang Triệu đã bị vua Liêu hạ lệnh chém đầu tại Khai Thành vào ngày 24 tháng 11 âm lịch năm 1010 (tức là ngày 31 tháng 12 dương lịch năm 1010).

Đầu tháng 2 năm 1011, Liêu Thánh Tông lên kế hoạch rút lui khỏi Cao Ly và muốn mang theo những tù Cao Ly giải về nhà Liêu cùng với họ. Dương Quy ở thành Hưng Hóa biết được việc đó thì ra sức tấn công quân Liêu để giải thoát những tù binh Cao Ly đó. Tại Mô Lão Đại (무로대, 無老代, Murodae), quân Cao Ly của Dương Quy đã đánh bại 2.000 quân Liêu và cứu thoát 2.000 tù binh Cao Ly. Sau đó quân Cao Ly của Dương Quy đến Thạch Lãnh (석령, 石嶺, Sŏngnyŏng) và đánh bại 2.500 quân Liêu, rồi cứu thoát được 1.000 tù binh Cao Ly. Tại Dư Lý Trạm (여리참, 余里站, Yŏrich'am), quân Cao Ly của Dương Quy đã giết 1.000 quân Liêu và cứu thoát thêm 1.000 tù binh Cao Ly. Nghe tin con đường rút lui đã bị quân đội Cao Ly của Dương Quy cắt đứt, Liêu Thánh Tông rút quân từ phương nam về Khai Thành.

Cao Ly Hiển Tông hứa sẽ tái khẳng định mối quan hệ triều cống với nhà Liêu với điều kiện quân Liêu phải rút lui. Một cuộc nổi dậy của nhân dân Cao Ly (trong đó có Thiên Thu Vương thái hậu tham gia) đã bắt đầu quấy rối lực lượng quân Liêu của vua Liêu Thánh Tông, Hàn Đức Nhượng, Tiêu Bài Áp và Gia Luật Bồn Nô. Không thể thiết lập được chỗ đứng và tránh các cuộc phản công của quân Cao Ly đã tập hợp lại, quân Liêu của vua Liêu Thánh Tông, Hàn Đức Nhượng, Tiêu Bài Áp và Gia Luật Bồn Nô đã rút lui trong tháng 2 năm 1011 khi không giành được lợi lộc gì to lớn, mặc khác cuộc xâm lược Cao Ly lần này đã khiến cho nhà Liêu lãng phí nguồn tài nguyên quý giá và làm giảm ngân khố quốc gia.

Quân Liêu sau đó lại bị quân dân Cao Ly do Dương Quy và Kim Thúc Hưng chỉ huy tập kích hai lần trước khi về đến biên giới nhà Liêu. Hầu hết các tù binh Cao Ly đều được Dương Quy và Kim Thúc Hưng giải cứu khỏi tay quân Liêu. Ở lần tập kích đầu tiên, họ suýt giết được Liêu Thánh Tông. Tuy nhiên, ở lần tập kích thứ hai, Dương Quy và Kim Thúc Hưng đều tử trận.

Sau cuộc chiến, Cao Ly Hiển Tông, Nguyên Trinh Vương hậu Kim thị, Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị, Khương Hàm Tán, Trương Diên Hựu, Tak Sachong và Ha Kongchin cùng triều đình Cao Ly từ Naju quay về kinh đô Khai Thành. Còn Thiên Thu Vương thái hậu thì quay về Hoàng Châu tiếp tục sinh sống.

Cuộc xâm lược của nhà Liêu những năm 1018 - 1019

Bản đồ quân đội nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) xâm lược [[Cao Ly (đời vua Cao Ly Hiển Tông) năm 1018 - 1019.]] Vào tháng 12 năm 1018, 100.000 quân Liêu dưới sự chỉ huy của tướng quân Tiêu Bài Áp đã xâm lược Cao Ly lần nữa. Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) và Kang Minchom chỉ huy quân Cao Ly đánh bại quân Liêu của Tiêu Bài Áp tại Hưng Hóa trấn (Heunghwajin).

Trong khi đó, cuối năm 1018, Cao Ly Hiển Tông ra lệnh biên soạn Bát vạn đại tạng kinh, gồm 6.000 quyển. Đây là bản khắc quan trọng và đầy đủ nhất về học thuyết Phật giáo trên thế giới và nó còn có giá trị về mặt thẩm mỹ chứng tỏ một trình độ tay nghề cao. Việc khắc này nhằm mục đích cầu mong Đức Phật phù hộ cho Cao Ly thoát nạn xâm lược.

Quân Liêu của Tiêu Bài Áp vượt qua Seogyeong (nay là Bình Nhưỡng, Triều Tiên), tiến đến Hoàng Châu thì bị dân quân Cao Ly do Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy liên tục tập kích, quấy phá suốt ngày đêm. Nhờ quân số vượt trội nên quân Liêu của Tiêu Bài Áp vẫn chiếm được Hoàng Châu. Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy dân quân Cao Ly rút về phía nam. Quân Liêu nam hạ chiếm Tongju rồi tiến tới kinh đô Khai Thành (Kaesong) của Cao Ly nhưng bị đánh bại bởi lực lượng Cao Ly do tướng Khương Hàm Tán chỉ huy. của Tiêu Bài Áp đã bị Khương Hàm Tán và Kang Minchom đánh tan tác ở Quy Châu (Gwiju). Quân đội Cao Ly (chỉ với khoảng 12.000 quân) Sau đó Tiêu Bài Áp dẫn vài ngàn quân Liêu này chạy về lãnh thổ nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Cùng với trận Tát Thủy (Salsu) năm 612 của Ất Chi Văn Đức (Eulji Meundeok) và trận Nhàn Sơn đảo (Hansando) năm 1592 của Lý Thuấn Thần (Yi Sunshin), trận Quy Châu (Gwiju) năm 1019 này của Khương Hàm Tán (Gang Gamchan) đã trở thành ba trận thắng vĩ đại nhất trong lịch sử bán đảo Triều Tiên.

Khương Hàm Tán trở về kinh đô Khai Thành (Kaesong) và được chào đón như một anh hùng quân sự đã cứu Cao Ly. Thiên Thu Vương thái hậu thì quay về Hoàng Châu. Sau chiến tranh, vào năm 1020, Khương Hàm Tán (73 tuổi) đã từ giã quân đội và triều đình để nghỉ ngơi vì ông ta đã quá già và đã trở thành anh hùng dân tộc.

Được Cao Ly Hiển Tông gọi về lại triều đình

Đầu năm 1029, nhờ công lao trong các cuộc chiến chống quân Liêu xâm lược, Thiên Thu Vương thái hậu được vua Cao Ly Hiển Tông cho quay về triều đình Khai Thành (Kaesong). Bà qua đời tại Sùng Đức cung (숭덕궁, 崇德宮) của Khai Thành vào ngày 20 tháng 1 năm 1029, thọ 65 tuổi. Trong khi đó, có giả thuyết cho rằng bà đã không quay trở lại Khai Thành mà chết tại Minh Phúc cung (Myeongbok cung) ở Hoàng Châu.

Bà được Cao Ly Hiển Tông ban thụy là Ưng Thiên Khải Thánh Tĩnh Đức Hiến Ai Vương thái hậu (Hangul: 應天啟聖靜德獻哀王太后; Hanja: 응천계성정덕헌애왕태후). Sau đó bà được chôn cất tại lăng mộ U Lăng (유릉, 幽陵, Yureung).

Trong văn hóa đại chúng

  • Được diễn bởi Chae Shi-ra và Kim So-eun trong phim truyền hình Thái hậu Cheonchu (Empress Cheonchu) (2008)
  • Được diễn bởi Lee Min-young trong phim truyền hình Chiến tranh Cao Ly-Khiết Đan (Korea–Khitan War) (2023 - 2024)
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiến Ai Vương hậu** (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay **Thiên Thu Vương thái hậu** (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời
**Hiến Trinh Vương hậu** (Hangul: 헌정왕후; Hanja: 獻貞王后, 966 – 1 tháng 8 năm 992) là vương hậu Cao Ly. Bà là vợ thứ tư của Cao Ly Cảnh Tông, và là em ruột của
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Vương hậu** (chữ Hán: 王后; Hangul: 왕후Wanghu; tiếng Anh: Queen Consort) là một Vương tước thời phong kiến của một số quốc gia phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và các quốc
**Mary Tudor** (/ˈtjuːdər/; tiếng Pháp: _Marie Tudor_; tiếng Tây Ban Nha: _María Tudor_; sinh ngày 18 tháng 3 năm 1496 – mất ngày 25 tháng 6 năm 1533) là một vương nữ người Anh, từng
**Trang Liệt Vương hậu** (chữ Hán: 莊烈王后; Hangul: 장렬왕후; 16 tháng 12, năm 1624 - 20 tháng 9, năm 1688), còn có cách gọi thông dụng **Từ Ý Đại phi** (慈懿大妃), là vị Vương hậu
**Ahmose** (_"Sinh bởi thần Mặt trăng"_) là một Vương hậu của Vương triều thứ 18. Bà là vợ cả của Pharaon Thutmose I và là mẹ của Hatshepsut - Nữ pharaoh lực bậc nhất trong
**Đại Mục Vương hậu Hoàng Châu Hoàng Phủ thị** () hay còn được gọi là **Đại Mục Vương hậu** () là một công chúa Hoàng gia Cao Ly, con gái duy nhất của Cao Ly
**Sobekemsaf** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 17 của Ai Cập cổ đại. ## Tên gọi Tên của Sobekemsaf mang ý nghĩa là "_Sobek bảo vệ ông ấy_". Về mặt
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
nhỏ|Con dấu scarab của vương hậu Tati, được vẽ lại bởi Percy Newberry. ([[Bảo tàng Anh - số hiệu BM20824)|190x190px]] **Tati** là một vương hậu của Ai Cập cổ đại, sống vào khoảng thế kỷ
**Iset** (hay **Isis**) là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 18 trong lịch sử Ai Cập cổ đại, được đặt theo tên của nữ thần Isis. Bà có lẽ được an
**Abar** (còn được viết là **Abala** hoặc **Abale** Bà được biết đến qua nhiều tấm bia đá được tìm thấy ở Sudan và Ai Cập. ## Tiểu sử Abar là một phụ nữ người Nubia,
**Neith** là một công chúa, đồng thời là vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 6 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà được đặt theo tên nữ thần Neith. ## Thân
**Meretseger** ("_Người thích sự tĩnh lặng_") là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà được đặt theo tên của nữ thần rắn Meretseger.
**Cung Huệ Vương hậu** (chữ Hán: 恭惠王后, Hangul: 공혜왕후, 11 tháng 10, 1456 - 15 tháng 4, 1474) là Vương hậu đầu tiên của Triều Tiên Thành Tông. ## Cuộc đời Bà sinh ra vào
**Aat** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Trong tất cả những người vợ của pharaon Amenemhat III, chỉ có tên của bà
**Ý Nhân Vương hậu** (chữ Hán: 懿仁王后; Hangul: 의인왕후; 5 tháng 5, 1555 - 5 tháng 8 năm 1600), là nguyên phối Vương phi của Triều Tiên Tuyên Tổ, vị quân chủ thứ 14 của
**Thần Đức Vương hậu** (chữ Hán: 神德王后; Hangul: 신덕왕후; 12 tháng 7, 1356 - 15 tháng 9, 1396) là kế thất và là Vương phi của Triều Tiên Thái Tổ, quốc vương đầu tiên của
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiển Cung Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯恭皇后; 1084 - 1109), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là sinh mẫu của Tống Khâm Tông Triệu Hoàn.
**Vương hậu Camilla** (tên khai sinh là **Camilla Rosemary Shand**, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1947) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và 14 vương quốc khác thuộc Khối Thịnh vượng
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Hiển Khánh vương** (Chữ Nho: 顯慶王) là cha của Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Tên của ông không được ghi chép lại trong sách sử,
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后; Hangul: 왕태후; tiếng Anh: _Dowager Queen_ hoặc _Queen Mother_) là một tước vị dành cho Vương hậu của các Quốc vương đã qua đời, hoặc mẹ đẻ (đôi khi
**Cảnh Ai Vương** (mất 927, trị vì 924–927) là quốc vương thứ 55 của vương quốc Tân La. Ông là con trai của Thần Đức Vương và Nghĩa Thành (Uiseong) vương hậu họ Kim, và
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Quân vương hậu** (chữ Hán: 君王后; ? - 249 TCN), họ Hậu (后姓), là Vương hậu của Tề Tương vương Điền Pháp Chương, mẹ của Tề vương Kiến, lần lượt là các quân chủ thứ
**Nhân Hiển vương hậu** (chữ Hán: 仁顯王后; Hangul: 인현왕후, 15 tháng 5, năm 1667 - 16 tháng 9, năm 1701), đôi khi còn gọi là **Phế phi Mẫn thị** (废妃閔氏), là Vương phi thứ hai
:_Đừng nhầm lẫn với Mutnedjmet, vương hậu của Pharaon Horemheb thuộc Vương triều thứ 18._ **Mutnedjmet** (hay **Mutnodjmet**) là một công nương, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ
**Nhân Nguyên Vương hậu** (chữ Hán: 仁元王后; Hangul: _인원왕후_, 3 tháng 11, năm 1687 - 13 tháng 5, năm 1757), còn gọi **Huệ Thuận** **Đại phi** (惠順王妃), là Vương phi thứ tư và cuối cùng
nhỏ|phải|alt=A gold coin shows paired, profiled busts of a plump man and woman. The man is in front and wears a diadem and drapery. It is inscribed"ΑΔΕΛΦΩΝ".|Head of Ptolemaios II Philadelphus with Arsinoe II behind.
**Minh Thành Hoàng hậu** (Hanja: 明成皇后, Hangul: 명성황후, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1851 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1895, còn được biết đến với danh xưng là **Minh Thành Thái Hoàng
**Cao Ly Hiển Tông** (chữ Hán: 高麗 顯宗, Hangul: 고려 현종, _Golyeo Hyeonjong_; 1 tháng 8 năm 992 – 17 tháng 6 năm 1031, trị vì 1009 – 1031) là quốc vương thứ 8 của
**_Vương hậu 7 ngày_** () là một phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia diễn xuất của Park Min-young trong vai Đoan Kính Vương hậu, cùng với Yeon Woo-jin và Lee Dong-gun. Phim
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
**Đại Quang Hiển** (, ? ~ ?) là vị thái tử cuối cùng của vương quốc Bột Hải, là con trai cả của quốc vương Đại Nhân Soạn. Ông đã lãnh đạo những người tị
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
Huy hiệu Chính quyền Anh (một biến thể của Huy hiệu Hoàng gia Anh) **Chính trị Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** lập nền trên thể chế quân chủ lập hiến với thủ
**Nữ vương** (chữ Hán: 女王, tiếng Anh: _Queen Regnant_) hay **Nữ chúa** (chữ Hán: 女主) là vị quân chủ nữ giới của một Vương quốc, ngang hàng với một vị vua hoặc Quốc vương. Những
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),