✨Chân Bình vương

Chân Bình vương

Chân Bình vương (眞平王 진평왕 Jinpyeong; sống: 565? - 632, trị vì: 579 - 632), tên thật là Kim Bạch Tịnh (金白浄 김白淨), là vua thứ 26 của Tân La, một trong Tam Quốc (Triều Tiên).

Ban đầu

Người được Chân Hưng vương chỉ định kế vị mình là Kim Bạch Tịnh, con trai của hoàng tử thứ nhất Kim Đồng Luân thái tử (銅輪太子 동륜태자). Năm 576, Kim Sa Nhuận đã tiến hành binh biến đánh vào hoàng cung khiến Chân Hưng vương tức giận qua đời. Kim Sa Nhuận đã chiếm ngôi vua Tân La, trở thành vua Chân Trí vương và trị vì Tân La. Một người vợ lẽ của Chân Hưng vương là Mỹ Thất (Milshi, năm đó đã 30 tuổi) trở thành vợ của Chân Trí vương.

Sau 3 năm làm vua Tân La, năm 579, Mỹ Thất (năm đó 33 tuổi) đã cùng thái hậu Sado, lãnh chúa Thế Tông (Sejong, nhân tình thứ nhất của Mỹ Thất), tướng quân Tuyết Nguyên (Seolwon, là nhân tình thứ hai của Mỹ Thất) và em trai cô là Mễ Sinh (Misaeng,là Pungwolju thứ mười) chỉ huy quân đội triều đình tiến hành binh biến, lật đổ vua Chân Trí vương. Kim Bạch Tịnh được Mỹ Thất đưa lên ngôi vua Tân La và trở thành Chân Bình Vương. Mỹ Thất (Mishil, người mẹ của 6 đứa con) lại trở thành vợ lẽ của Chân Bình vương.

Cai trị

Ông đã tiếp nối Chân Hưng vương trong việc tổ chức lại hệ thống lãnh đạo trung tâm trong khi có nhiều đụng độ với Bách Tế và Cao Câu Ly. Ông gửi những sứ giả đi để cải thiện mối quan hệ và tăng cường mối liên hệ giữa Tân La và nhà Tùy và nhà Đường. Ông cũng được biết đến vì đã khuyến khích đạo Phật.

Lúc này vợ lẽ của Chân Bình Vương là Mỹ Thất (Mishil) vẫn tư thông với 2 nhân tình của cô ta là lãnh chúa Thế Tông (Sejong, là Pungwolju thứ sáu) và tướng quân Tuyết Nguyên (Seolwon, là Pungwolju thứ bảy). Mỹ Thất sinh cho tướng quân Tuyết Nguyên một đứa con trai có tên là Bảo Tông (Bojong, 寶宗 보종) vào năm 580. Do xã hội Tân La là nam nữ bình đẳng, nam có thể lấy nhiều vợ thì nữ cũng có thể lấy nhiều chồng.

Thời gian sau, Mỹ Thất sinh cho Chân Bình Vương một người con gái có tên là Bảo Hoa công chúa (寶華公主 보화공주).

Năm 586, vua Cao Câu Ly Bình Nguyên Vương phái quân Cao Câu Ly tái chiếm nhiều thành trì ở vùng đông bắc Tân La. Sau đó ông ta dời đô về thành Jangan (Trường An).

Năm 588, Pungwolju thứ sáu của Tân La là Thế Tông (Sejong) qua đời. Cùng năm đó, con trai lớn của Thế Tông và Mỹ Thất là Hạ Tông (Hajong) trở thành Pungwolju thứ mười một của Tân La.

Năm 590, vua Cao Câu Ly Anh Dương Vương phái quân Cao Câu Ly tấn công vùng tây bắc của Tân La. Đến năm 591 thì quân Cao Câu Ly mới bị quân Tân La đánh đuổi về.

Năm 595, con trai của Mỹ Thất (Mishil) với tướng quân Tuyết Nguyên (Seolwon) là Bảo Tông (Bojong) trở thành Hoa Lang và phò tá cho Mỹ Thất.

Năm 598, nhân lúc vua Bách Tế Huệ Vương của Bách Tế vừa lên ngôi, Chân Bình Vương tổ chức nhiều cuộc xâm nhập vào Bách Tế. Kết quả là Tân La đã chiếm vùng thung lũng sông Hán và từ đó có thể thông thương trực tiếp với nhà Tùy (đời vua Tùy Văn Đế) ở Trung Hoa.

Trong Tam quốc di sự có ghi chép lại một truyền thuyết về tình yêu của vua Bách Tế Vũ vương của Bách Tế và một người công chúa của Tân La là con gái của Chân Bình Vương, mặc dù các nhà sử học phủ nhận điều này, do tình hình chiến tranh giữa 3 vương quốc lúc đó. Trong câu chuyện, Chương Thử Đồng (tên thời thơ ấu của Bách Tế Vũ Vương) đã nảy sinh tình yêu với Thiện Hoa công chúa của Tân La. Chương Thử Đồng đã lan truyền bài hát về mình và công chúa. Do bài hát này, Chân Bình Vương đã đuổi nàng ra khỏi hoàng cung, Bách Tế Vũ Vương đã cưới nàng và trở thành vua của Bách Tế vào năm 600.

Trong đầu thời kỳ trị vì Bách Tế Vũ Vương, nước Bách Tế đã tổ chức chiến tranh chống Tân La của Chân Bình Vương nhằm đòi lại lãnh thổ đã mất.

Năm 602, Bách Tế Vũ Vương phái quân Bách Tế đánh chiếm vài thành phía tây nam Tân La.

Năm 603, vua Cao Câu Ly Anh Dương Vương phái quân Cao Câu Ly tấn công vùng tây bắc của Tân La. Đến năm 604, quân Tân La mới đánh lui được quân Cao Câu Ly.

Năm 606, Pungwolju thứ bảy của Tân La là Tuyết Nguyên (Seolwon) qua đời, hưởng thọ 57 tuổi.

Năm 608, vua Cao Câu Ly Anh Dương Vương phái quân Cao Câu Ly đánh chiếm nhiều thành ở vùng đông bắc của Tân La. Đến năm 609, nhiều thành trì phía bắc của Tân La đã bị quân Cao Câu Ly đánh chiếm. Lãnh thổ Tân La lúc này đã bị giảm đi 2/3 so với lúc Chân Bình Vương mới lên ngôi. Năm 611, quân Cao Câu Ly đánh chiếm phần phía tây của thung lũng sông Hán từ Tân La, uy hiếp lãnh thổ Bách Tế của vua Bách Tế Vũ vương.

Năm 612, vợ lẽ của Chân Bình Vương là Mỹ Thất (Mishil]] qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Suốt cuộc đời bà lấy 7 người chồng (lãnh chúa Thế Tông, Tư Đa Hàm, Kim Đồng Luân thái tử, tướng quân Tuyết Nguyên, vua Chân Hưng Vương, vua Chân Trí Vương, vua Chân Bình Vương) và sinh ra 4 người con trai (Hạ Tông, Ngọc Tông, Thọ Tông, Bảo Tông) và 4 người con gái (Ngải Tung công chúa, Ban Nhã công chúa, Lan Nhã công chúa và Bảo Hoa công chúa). Thời gian sau, Bảo Hoa công chúa (con gái của Chân Bình Vương với Mỹ Thất) qua đời.

Năm 614, nhân lúc Cao Câu Ly của vua Cao Câu Ly Anh Dương Vương vừa phải trải qua ba cuộc kháng chiến chống quân đội nhà Tùy (đời vua Tùy Dạng Đế) xâm lược và còn đang mệt mỏi, Chân Bình Vương phái quân Tân La bắc tiến chiếm nhiều thành của Cao Câu Ly và chiếm lại phần phía tây của thung lũng sông Hán từ Cao Câu Ly.

Năm 616, vua Bách Tế Vũ vương phái quân Bách Tế đánh chiếm nhiều thành ở tây bắc Tân La.

Cùng năm 616 con trai của Mỹ Thất (Mishil]] và tướng quân Tuyết Nguyên (Seolwon) là Bảo Tông (Bojong) trở thành Pungwolju thứ mười sáu và đồng thời là Quốc tiên (Gukseon, lãnh đạo của Hoa Lang) thay cho Kim Dữu Tín (Kim Yu-shin, hậu duệ của liên minh Già Da).

Năm 621 Quốc tiên của Tân La là Bảo Tông (Bojong) của Tân La qua đời, hưởng thọ 41 tuổi.

Năm 623, vua Bách Tế Vũ vương phái quân Bách Tế đánh chiếm nhiều thành ở tây bắc Tân La.

Năm 627, vua Bách Tế Vũ Vương của Bách Tế đã huy động một lực lượng quân đội lớn để tấn công Tân La nhưng không thành công do sự can thiệp ngoại giao của nhà Đường (đời vua Đường Thái Tông). Sau việc này, vua Bách Tế Vũ Vương của Bách Tế cũng giữ quan hệ chặt chẽ với nhà Đường, nhưng nhà Đường của Đường Thái Tông lại liên minh với Tân La trong các cuộc chiến tranh.

Vào lúc này, từ năm 628 đến năm 629, Cao Câu Ly (đời vua Cao Câu Ly Vinh Lưu Vương) tiếp tục các trận chiến nhằm thu phục lại các phần lãnh thổ đã bị mất vào tay Tân La. Tuy nhiên quân Cao Câu Ly đã bị quân Tân La đánh bại. Trong năm 629, vua Tân La Chân Bình Vương phái quân Tân La bắc tiến và đánh chiếm nhiều thành trì của Cao Câu Ly. Tướng Tân La là Kim Dữu Tín (Kim Yu-shin) dẫn quân Tân La đánh chiếm thành Nương Tí (Nangbi) của Cao Câu Ly vào năm 629. Cuộc chiến giữa Cao Câu Ly và Tân La tiếp diễn đến năm 631.

Chân Bình Vương không có con trai mà chỉ có 3 người con gái là Thiên Minh công chúa (tiếng Hàn: 천명공주; chữ Hán: 天明公主), Đức Mạn công chúa (tiếng Hàn:덕만공주, chữ Hán: 德曼公主) và Thiện Hoa công chúa (tiếng Hàn:善花公主, chữ Hán: 선화공주). Trong đó Thiên Minh công chúa mất sớm, Thiện Hoa công chúa lại ở Bách Tế làm hoàng hậu cho vua Bách Tế Vũ Vương, còn con trai của Thiên Minh công chúa là Kim Xuân Thu còn trẻ tuổi. Vì thế ông đã chọn con gái thứ 2 là Đức Mạn công chúa lên làm Thế nữ để sau này sẽ kế vị mình. Điều này không có gì khác thường ở Tân La, bởi vì phụ nữ trong thời đại này có vai trò tương đối cao với nhiều cố vấn, quý phu nhân và vương hậu nhiếp chính xuất hiện ở đất nước.

Thêm vào đó, việc Đức Mạn công chúa được Chân Bình Vương lựa chọn làm người kế vị là do sự biểu hiện thông minh sâu sắc của bà ta ngay từ khi bà ta còn là Đức Mạn công chúa. Một câu chuyện được truyền tụng trong cả hai cuốn sách sử nổi tiếng: Samguk Sagi (Hán tự: 三國史記 – Tam Quốc sử ký) và Samguk Yusa (Hán tự: 三國遺事 - Tam Quốc di sự)) như sau:

:Khi cha bà (Chân Bình Vương) nhận được một cái hộp hạt giống hoa mẫu đơn từ Hoàng đế Đường Thái Tông kèm theo một bức tranh vẽ đóa hoa mẫu đơn đã thành hình. Nhìn thấy bức tranh, Đức Mạn công chúa đã cho rằng một bông hoa dù có đẹp đến mấy cũng thật tệ khi nó chẳng có mùi hương. Sau đó bà ta nói rằng: "Nếu là con vẽ, sẽ có thêm vô số ong bướm lượn quanh bông hoa này!". Tầm nhìn của Đức Mạn công chúa về sự thiếu hụt mùi hương của bông hoa mẫu đơn đã tỏ ra chính xác, một bằng chứng trong vô số bằng chứng về sự thông minh, thậm chí là khả năng lãnh đạo của bà ta.

Khắp vương quốc, phụ nữ không phải là người có tiếng nói trong gia đình từ khi chế độ mẫu hệ suy yếu bên cạnh chế độ phụ hệ. Tư tưởng Nho giáo đã đặt người phụ nữ vào một vị trí thấp, không có tầm ảnh hưởng gì lớn trong xã hội Triều Tiên, cho tới tận giữa triều đại nhà Triều Tiên thế kỷ thứ XV.

Trong vương triều Tân La, vai trò của người phụ nữ tương đối cao, nhưng vẫn có sự hạn chế trong hành xử và lễ giáo của người phụ nữ. Phụ nữ thường bị hạn chế tham gia vào các hoạt động lớn vì xã hội cho rằng chúng không phù hợp với họ.

Ngày 20 tháng 1 năm 632, Chân Bình vương mất. Người kế vị ông là Đức Mạn công chúa - con gái thứ 2 của ông, sử gọi là Thiện Đức nữ vương.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chân Bình vương** (眞平王 진평왕 Jinpyeong; sống: 565? - 632, trị vì: 579 - 632), tên thật là **Kim Bạch Tịnh** (金白浄 김白淨), là vua thứ 26 của Tân La, một trong Tam Quốc (Triều
**Chân Trí vương** (mất ngày 17 tháng 7 năm 579) là vị vương thứ 25 của Tân La, một trong Tam Quốc (Triều Tiên). Thực tế, ông là hoàng tử thứ hai của Chân Hưng
**Bình Vương** (chữ Hán: 平王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và phiên vương hoặc đại thần. ## Danh sách * Thương Bình Vương * Thương Ân Bình Vương * Cơ Tử
**Chân Hưng Vương** (540–576) là vua thứ 24 của Tân La, một trong Tam Quốc (Triều Tiên). Ông có tên húy là _Kim Tam Ma Tướng_ (김삼맥종, 金三麻将), là cháu của vua Tân La Pháp
**Sở Bình vương** (chữ Hán: 楚平王; trị vì: 528 TCN-516 TCN), nguyên tên thật là **Hùng Khí Tật** (熊弃疾), sau khi lên ngôi đổi là **Hùng Cư** (熊居) hay **Mị Cư** (羋居), là vị vua
**Bắc Bình Vương** (_chữ Hán_:北平王) là tước hiệu của một số nhân vật lịch sử rất quan trọng ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách *Bắc Bình Vương Cao Trinh thời
**Thiện Đức Nữ vương** (tiếng Hàn: 선덕여왕), tên thật là **Kim Đức Mạn**, là nữ vương của nước Tân La (một trong ba vương quốc thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên gồm Cao Câu Ly,
**Vũ Vương của Bách Tế** (580 - 641, trị vì: 600 - 641) là vị vua thứ 30 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai thứ tư của Uy
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Anh Dương Vương** (trị vì 590–618) là quốc vương thứ 26 của Cao Câu Ly. Ông là con trai cả của Bình Nguyên Vương. Ông được lịch sử biết đến nhiều vì đã đẩy lui
**Chân Đức nữ vương** (), tên thật **Kim Seung-man** (), là một nữ vương của Tân La, một trong Tam Quốc Triều Tiên, trị vì từ năm 647 đến năm 654. Bà là con của
**Vinh Lưu Vương** (Yeongnyu-wang, phát âm như _Ieng-nhiu-oan_, trị vì 618 — 642) là quốc vương 27 của Cao Câu Ly. Ông là người đệ khác mẹ của Anh Dương Vương, và là con của
**Vương An Thạch** (chữ Hán: 王安石 _Wang Anshi_; 18 tháng 12 năm 1021 – 21 tháng 5 năm 1086), tự **Giới Phủ** (介甫), hiệu **Bán Sơn Lão Nhân** (半山老人 _Banshan Laoren_), người ở Phủ Châu,
**Lý Viện** (chữ Hán: 李瑗, 586 – 626), tự **Đức Khuê**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , hoàng thân nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông cụ là Thái
**Bình Nguyên Vương** (trị vì 559—590) là quốc vương thứ 25 của Cao Câu Ly. Tên húy của ông là Dương Thành. Các sử gia tán thành rộng rãi về thời gian trị vì của
**Lưu Hưng** (chữ Hán: 劉興; ? - 8 TCN), thụy hiệu **Trung Sơn Hiếu vương** (中山孝王), là một hoàng tử nhà Hán, Chư hầu Vương thứ 8 của nước Trung Sơn, một trong những quốc
**Thân vương quốc Bulgaria** (, _Knyazhestvo Balgariya_), là một quốc gia chư hầu của Đế chế Ottoman, nhưng độc lập trên thực tế. Nó được thành lập theo Hiệp ước Berlin năm 1878. Sau khi
**Huệ Vương** (mất 599, trị vì 598–599) là vị quốc vương thứ 28 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là vương tử thứ hai của vị quốc vương thứ 26 là
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
[[Chùa Nhất Trụ ở Cố đô Hoa Lư]] Điện Tam Thế ở [[Chùa Bái Đính]] [[Đền Trần (Nam Định)|Đền Trần ở Nam Định]] [[Chùa Địch Lộng ở Gia Viễn]] [[Đền Trần Thương ở Hà Nam]]
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
**Vương Chấn** (chữ Hán: 王振; ?-1449) là hoạn quan, đại thần nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính trường nhà Minh trong những năm đầu thời Minh Anh Tông và
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Tây Vương Mẫu** (chữ Hán: 西王母, còn gọi là **Vương Mẫu** (王母), **Dao Trì Kim Mẫu** (hay **Diêu Trì Kim Mẫu**, 瑤池金母), **Tây Vương Kim Mẫu** (西王金母), **Vương Mẫu Nương Nương** (王母娘娘) hoặc **Kim Mẫu
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**_Kim Bình Mai từ thoại_** (金瓶梅詞話), thường được biết đến tới tên gọi **_Kim Bình Mai_** (金瓶梅), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh sáng tác vào thời nhà
Trước đền [[Đinh Bộ Lĩnh trên quê hương Gia Viễn]] Các di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình (màu đỏ) [[Đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở cố đô Hoa Lư]] Ninh Bình là quê
nhỏ|[[Hồng Tú Toàn, người sáng lập Thái Bình Thiên Quốc]] **Thái Bình Thiên Quốc** (chữ Hán phồn thể: 太平天國, chữ Hán giản thể: 太平天国; 1851–1864) hoặc **Thiên Quốc** là một nhà nước tôn giáo thần
Bình Định là quê hương của các loại hình nghệ thuật như tuồng, bài chòi... với bờ biển dài, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như:Quy Nhơn, Tam
**Trần Bình Trọng** (chữ Hán: 陳平仲, 1259 - 26 tháng 2, 1285) là một danh tướng nhà Trần, có công lớn hộ giá bảo vệ cho Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trong cuộc
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Đại Di Chấn** (trị vì 830 – 857), là vị quốc vương thứ 11 của vương quốc Bột Hải. Ông là đích tôn của Bột Hải Tuyên Vương, vị quốc vương thứ 10 và là
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
**Chu Vũ Vương** (chữ Hán: 周武王, 1110 TCN - 1043 TCN, tên thật là **Cơ Phát** (姬發), nhật danh là **Vũ Đế Nhật Đinh** (珷帝日丁), là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
**Vương Song** (chữ Hán: 王雙, bính âm: Wang Shuang; mất 228) tự là **Tử Toàn** (子全), là một vị tướng lĩnh của nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc.
**Vương Trấn Ác** (chữ Hán: 王镇恶, 11 tháng 6, 373 – 7 tháng 3, 418), người huyện Kịch, quận Bắc Hải, tướng lĩnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời
**Vương Sĩ Chân** (chữ Hán: 王士真, bính âm: Wang Shizhen, 759 - 809), thụy hiệu **Thanh Hà Cảnh Tương vương** (清河景襄王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
_Đối với các định nghĩa khác, xem_ _Ninh Bình (định hướng)._ **Ninh Bình** là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, miền Bắc,
**Bình Nhưỡng** (, , , ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nằm ở hai bên bờ sông Đại Đồng. Theo kết quả điều