✨Vương An Thạch

Vương An Thạch

Vương An Thạch (chữ Hán: 王安石 Wang Anshi; 18 tháng 12 năm 1021 – 21 tháng 5 năm 1086), tự Giới Phủ (介甫), hiệu Bán Sơn Lão Nhân (半山老人 Banshan Laoren), người ở Phủ Châu, Lâm Xuyên (nay là huyện Đông Hương, tỉnh Giang Tây), là một nhà văn nổi tiếng thời nhà Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc. thumb|Chân dung Vương An Thạch (Hiện vật thuộc Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc)

Tham gia chính sự lần thứ nhất

Ông xuất thân trong gia đình khoa bảng. Cha đẻ là Vương Ích. Đỗ tiến sĩ năm Khánh Lịch thứ 2 (1042) đời Tống Nhân Tông. Cùng năm, được bổ dụng làm trợ lý cho quan đứng đầu thủ phủ tỉnh Dương Châu. Năm 1047, ông được thăng tri huyện Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Năm 1051, ông được cử đến Thương Châu làm thông phán. Hết nhiệm kì này ông được điều về kinh đô. Năm 1057, ông làm tri châu Thương Châu, tỉnh Giang Tô. Năm 1058 ông lại được điều đi làm quan hình ngục Giang Đông, trông coi việc tư pháp và hành chính Giang Nam. Đến cuối năm này, sau 17 năm làm quan địa phương, ông đã viết một bài trình lên Tống Nhân Tông, nêu rõ các trì trệ hiện thời của Bắc Tống và nêu lên các biện pháp khắc phục, áp dụng tân pháp để cải cách chế độ kinh tế-xã hội, quân sự của nhà Tống nhưng thất bại do sự chống đối của các tầng lớp quan lại đương thời. Trải qua một thời gian dài hai đời vua Tống Nhân Tông và Tống Anh Tông, sau khi về chịu tang mẹ 3 năm ở quê nhà, ông ở lại đó và mở trường dạy học.

Lúc còn trẻ, ông đã ưa chuộng Nho học và dốc lòng vào việc quan. Khi tuổi về già, do việc quan không đắc ý, nên ông đem lòng say mê nghiên cứu Phật học. Phật giáo lúc bấy giờ thiên về Thiền tông, có ảnh hưởng rất lớn đối với học thuật Trung Quốc đời Tống.

Tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của ông là xúi giục vua Tống xua quân xâm chiếm Đại Việt để lấy uy với nước Liêu và Tây Hạ (đang có xung đột với Tống ở phía Bắc). Rốt cục quân Tống không những không đánh thắng được Đại Việt, bị hao binh tổn tướng rất nhiều mà còn bị Đại Việt đem quân đánh phá 3 châu Khâm, Liêm, Ung.

Tham gia chính sự lần thứ hai

Năm 1068, Tống Thần Tông lên làm vua, triều đình nhà Tống gặp phải tình huống khủng hoảng về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội. Tống Thần Tông lên ngôi và triệu ông về kinh đô Biện Kinh, phong làm Hàn lâm viện Học sĩ. Năm 1069 ông được thăng Tham tri chính sự. Năm 1070, Vương An Thạch được cử làm Tể tướng, đã đề ra chính sách cải cách kinh tế, dựng ra phép "... Bảo Giáp, Bảo Mã làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc khố dồi dào, làm binh lực nước mạnh" nhằm cứu vãn tình thế khó khăn trong nước và sự uy hiếp của hai nước Liêu – Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, đồng thời có ý đồ mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam (trong đó có Đại Việt). Tân pháp của ông xét theo quan điểm của kinh tế học hiện đại gần với tính chất của một nền kinh tế kế hoạch hóa và phúc lợi công cộng. Để thủ tiêu việc đầu cơ tích trữ và độc quyền, ông cũng đã đưa ra một hệ thống giá cả cố định, đề ra việc trả lương bổng và trợ cấp hưu trí cho quan lại cũng như trợ cấp cho những người khó khăn v.v.

Nội dung tân pháp

Vương An Thạch đặt ra 3 phép về việc tài chính và 2 phép về việc quân binh.

  • Tài chính: # Phép thanh miêu: khi lúa còn xanh thì nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín thì dân lại phải trả tiền lại, tính theo lệ nhà nước đã định mà trả tiền lãi. # Phép miễn dịch: cho những người dân đinh mà ai không phải sưu dịch thì được nộp tiền, để nhà nước lấy tiền ấy thuê người làm. *# Phép thị dịch: đặt ra một sở buôn bán ở chốn kinh sư, để có những hàng hóa gì dân sự bán không được thì nhà nước mua thu cả lấy mà bán. Những nhà buôn ai cần phải vay tiền thì cho vay, rồi cứ tính theo lệ nhà nước mà trả tiền lãi.
  • Quân binh: # Phép bảo giáp: lấy dân làm lính. Chia ra 10 nhà làm một bảo, 500 nhà làm một đô bảo. Mỗi bảo có đặt hai người chánh phó để dạy dân luyện tập võ nghệ. # Phép bảo mã: nhà nước giao ngựa cho các bảo phải nuôi, có con nào chết thì dân phải theo giá đã định mà bồi thường lại.

Tân pháp, hay còn gọi là biến pháp là những chủ trương cải cách đầy tiến bộ thông qua các đạo luật. Khi năm phép ấy thi hành ra thì sự chống đối của các tầng lớp quan lại lên cao. Họ cho là trái với chế độ và phong tục cũ từ thời Tam Hoàng - Ngũ Đế nhất là các quan lại theo cựu đảng như Tư Mã Quang, Tô Thức, Âu Dương Tu. Biến pháp Vương An Thạch được tiến hành một thời gian, và bị các thành phần khác ghen ghét, đấu tranh chống lại luật "thu thuế lúc lúa đang xanh" nên ông đã bị bãi chức lần thứ nhất. Giai đoạn từ 1070 đến 1075, ông mạnh tay thực hiện các biện pháp cải cách của mình.

Ông còn cho sửa đổi lại hệ thống thi cử quốc gia, làm cho nó ít lệ thuộc vào Tứ Thư, Ngũ Kinh mà dựa trên cơ sở những kiến thức có giá trị thực tiễn. Điều này cũng làm cho tầng lớp quý tộc và quan lại theo trường phái Khổng Tử khó chịu.

Khoảng tháng 6 năm 1074, thấy không làm được gì, ông xin từ chức. Nhưng tình hình càng trở nên phức tạp hơn. Đến tháng 3 năm 1075, Vương An Thạch lại được vua Tống triệu về chấp chính. Lần này, thì lại có làn sóng chống "luật miễn dịch" của ông. Hàng nghìn người kéo đến trước cửa nhà ông để làm náo động. Sau này, ông cử người đi điều tra sự thật và phát hiện ra phái chống đối đã giở thủ đoạn làm cho việc thi hành bị sai với đường lối ban đầu nên đã giải thích cho dân hiểu rõ sự thật.

Giai đoạn từ năm 1073 đến năm 1077, ông cho tiến hành luật Thị dịch. Phái chống đối ngày càng hành động quyết liệt hơn. Ông bị chỉ trích với 7 tội lớn. Tằng Bố còn đâm ông bị thương. Thực tế, trong hai năm thi hành luật Thị dịch, cuộc sống ở kinh thành ổn định hơn. Vào năm 1076, Vương An Thạch lại được vua vời ra làm Tể tướng. Tháng 10 năm đó, vua lại phế chức ông, đồng thời ông cũng xin từ chức do vua không nghe theo các cải cách khác của ông.

Tống Thần Tông trở thành người chỉ đạo cải cách sau khi Vương An Thạch từ chức, nhưng sau này, do tổn thất quá nặng nề trong cuộc xâm lược của Tây Hạ, nhà vua không còn hứng thú gì đến việc cải cách. Năm 1085 Tống Thần Tông qua đời, Tống Triết Tông mới 10 tuổi lên ngôi vua, nhà vua bổ nhiệm Tư Mã Quang làm Tể tướng. Một năm sau khi Tư Mã Quang chấp chính, các biện pháp cải cách bị loại bỏ gần hết.

Tháng 10, năm Hi Ninh thứ 9 (1076) Vương An Thạch quay về Giang Ninh. Ông trồng cây, làm vườn và sinh sống ở đây hơn 10 năm.

Ông hưởng thọ 64 tuổi, ôm hận "Biến pháp cải cách" thất bại. Biến pháp của ông đả kích mạnh mẽ vào quyền lợi của các đại quan, địa chủ, thương nhân, quý tộc cung đình và hoàng thân quốc thích, hạn chế đặc quyền của chúng, đương đầu với các thế lực thủ cựu. Ông bị bốn phía chĩa mũi dùi tấn công khiến ông chán nản và đi dần đến thất bại.

Ông sống cuộc đời giản dị, không ham tiền tài danh vọng. Một danh nhân đương thời tặng ông biệt hiệu "Xem phú quý như phù vân, một vĩ nhân". Ông được người đời sau tôn là một trong "Đường Tống bát đại gia" (tám đại văn hào của đời Đường và đời Tống).

Văn chương

Ông là một trong bát đại gia về văn xuôi và thơ phú từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13 ở Trung Quốc, gồm có: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng và ông.

Thơ

Bài thơ Tết Nguyên Đán của ông

đã được nhiều người dịch

Ngoài ra ông còn để lại nhiều bài khác như Minh phi khúc.

Giai thoại

Giữa Vương An Thạch và Tô Thức có một giai thoại lý thú.

Tô Đông Pha đọc thơ của Vương An Thạch, thấy có hai câu: :Minh nguyệt sơn đầu khiếu :Hoàng khuyển ngọa hoa tâm

Đông Pha chê là vô lý: trăng sáng sao lại hót ở đầu núi, chó vàng sao lại nằm trong lòng hoa được?

Do nghĩ như vậy nên Đông Pha lấy bút sửa chữ khiếu ra chữ chiếu, sửa chữ tâm thành chữ âm, thành ra:

Sau đó, Tô Đông Pha bị đổi tới một nơi ở phía nam. Ở đó, Đông Pha thấy một loài chim tên là Minh nguyệt, và một loài sâu tên là Hoàng khuyển. Lúc đó, Đông Pha nhớ lại hai câu thơ của Vương An Thạch, có nghĩa là:

:Con chim Minh nguyệt hót ở đầu núi :Con sâu Hoàng khuyển nằm giữa đóa hoa

Lúc ấy Đông Pha mới biết kiến thức của mình còn kém họ Vương nhiều.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương An Thạch** (chữ Hán: 王安石 _Wang Anshi_; 18 tháng 12 năm 1021 – 21 tháng 5 năm 1086), tự **Giới Phủ** (介甫), hiệu **Bán Sơn Lão Nhân** (半山老人 _Banshan Laoren_), người ở Phủ Châu,
**Trường An** (chữ Hán giản thể:长安区, âm Hán Việt: _Trường An khu_) là một quận thuộc địa cấp thị Thạch Gia Trang, tỉnh, Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này có diện
phải|Tượng Tạ An **Tạ An** (chữ Hán: 謝安, 320 - 385), tên tự là **An Thạch** (安石), nguyên quán ở huyện Lịch Dương, Trần quận, là nhà chính trị, quân sự lớn và đại thần
**Vương Chiêu Quân** (chữ Hán: 王昭君), cũng gọi **Minh phi** (明妃) hoặc **Minh Quân** (明君), là một nhân vật chính trị thời nhà Hán, nguyên là cung nhân của Hán Nguyên Đế, rồi trở thành
**Văn Vương** (chữ Hán: 文王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ và tướng lĩnh quan lại hay hoàng thân quốc thích. ## Danh sách # Thương Văn Vương #
**Vương** (chữ Hán: 王) một họ trong tên gọi đầy đủ có nguồn gốc là người Á Đông. Họ này có mặt tại Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Ba họ phổ biến nhất
**Lý Thương Ẩn** (chữ Hán: 李商隱; 813 - 858) biểu tự **Nghĩa Sơn** (義山), hiệu **Ngọc Khê sinh** (玉谿生), **Phiền Nam sinh** (樊南生) là một trong những nhà thơ lớn nhất của văn học Trung
phải|Lầu chính của Đằng Vương các ở Giang Tây. **Đằng Vương các** (tiếng Trung: 滕王阁) là tên gọi của ba nhà lầu có gác do Đằng Vương Lý Nguyên Anh thời Nhà Đường cho xây
[[Minh Quang Tông Thái Xương Đế, tại vị chỉ được 29 ngày]] **Án hồng hoàn** (chữ Hán: 紅丸案), là vụ án thứ hai trong Ba vụ án thời Minh mạt, liên quan đến nguyên nhân
**Thạch Sùng** (chữ Hán: 石崇; 249-300) là quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là nhân vật xa hoa giàu có đương thời. ## Biết con không ai bằng cha Thạch
**Tưởng Trung Chính** (; 31 tháng 10 năm 1887 – 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ: **Giới Thạch** (介石) nên còn gọi là **Tưởng Giới Thạch**, tên khai sinh: **Thụy Nguyên** (瑞元) là một
**Triệu vương** (趙王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và thân vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Triệu nhà Chu. ## Việt Nam ### Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
:_Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Thạch Sùng (định hướng)_ **Sự tích con thạch sùng** là truyện cổ tích dân gian kể về một nhân vật nghèo khổ bỗng phát
**Vương Tư Triều** (; 1937 – 17 tháng 6 năm 2016) là nhà thiên văn học hành tinh, nhà thiên thạch học, chuyên gia UFO và nhà văn khoa học phổ thông người Trung Quốc.
**Lịch sử hành chính Nghệ An** có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1831 với cải cách hành chính của Minh Mạng, chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Minh Vương** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Vưng,** sinh ngày 1 tháng 6 năm 1950) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng người Việt Nam, thành danh từ trước năm 1975. Ông kết hợp cùng
nhỏ|Lễ Liệt Thân vương [[Đại Thiện]] **Hòa Thạc Lễ Thân vương** (chữ Hán:和碩禮親王, ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do được ban ân con
**Thạch anh** (silic dioxide, SiO2) hay còn gọi là **thủy ngọc** là một trong số những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất. Thạch anh được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang** (tên khác: **Nhà thờ La Vang**) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Tổng giáo phận Huế, tọa lạc ở xã Hải Lăng, Quảng Trị, Việt
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志), tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tham gia khởi nghĩa Chí (sanh năm ngày 9 tháng 1 ÂL năm 1335 – mất ngày 17 tháng
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Định An Quốc** (; ; 935 - 999) là một nhà nước kế thừa của vương quốc Bột Hải, được Liệt Vạn Hoa (Yeol Manhwa) thành lập tại khu vực Bàn Thạch, Liêu Ninh ngày
thumb|[[Đa Nhĩ Cổn - thủy tổ của Duệ vương phủ.]] **Hòa Thạc Duệ Thân vương** (chữ Hán: 和碩睿親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Tần vương** (秦王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và chư hầu vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Tần – nhà Tần. ## Xuân Thu–Chiến Quốc Các quân chủ nước
thumb|281x281px|Dấu ấn lịch sử tại [[Dinh tổng thống (Nam Kinh)|Dinh tổng thống Nam Kinh nhắc đến chữ "Thiên Vương" trong lời tựa ()]] **Thiên vương** () là tước hiêu của Trung Quốc dành cho các
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王源 hay 原 , ? - ?), tự **Khải Trạch**, người Long Nham, Phúc Kiến, quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông được sử cũ xếp vào nhóm
**Vương quốc Mysore** là vương quốc nằm ở phía nam Ấn Độ, theo truyền thống cho rằng vương quốc đã được thành lập năm 1399 ở khu vực quanh thành phố Mysore sau này. Vương
**Ashoka Đại Đế** (br. **𑀅𑀲𑁄𑀓** sa. _aśoka_, pi. _asoka_, zh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. _maurya_, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị
**Ấn Độ** (, ), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Ấn Độ** (, ) là một quốc gia ở khu vực Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ 7 về diện tích và
Nhà thơ Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, sinh năm 1941 tại thôn Đông Bích, tổng Thuần Trung, huyện Lương Sơn, tỉnh Nghệ An, nay là thôn Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Hòa Thạc Thuần Thân vương** (chữ Hán: 和碩淳親王, ) là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Thuần vương phủ là Dận Hựu -
**Khang Vương** (chữ Hán: 康王) là thụy hiệu và tước hiệu hay tôn hiệu của một số vị quân chủ và phiên vương ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Thụy hiệu #
**_Vương Tử Hiên_** (, , sinh ngày 3 tháng 6 năm 1986), là nhà sản xuất, ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, diễn viên Hồng Kông. ## Tiểu sử Vào thập niên 50, ông nội
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Hành chính Việt Nam thời An Dương Vương** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời An Dương Vương trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền
**Trung Vũ Vương** (chữ Hán: 忠武王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của những nhân vật lịch sử ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách # Tây Hán Sa Xa Trung
Nằm trên băng tìm cá chép là biểu tượng gắn liền với Vương Tường. **Vương Tường** (chữ Hán: 王祥, 180 hoặc 184 – 268) là quan viên, tam công nhà Tào Ngụy thời Tam quốc,
**Sao Hải Vương** (tiếng Anh: **Neptune**), hay **Hải Vương Tinh** (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ
nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ của Vương quốc Mataram cổ đại. **Vương quốc Mataram**, hay còn có tên gọi khác **Sanjaya** (gọi theo tên vương triều cai trị), là một nhà nước từng tồn tại ở
**Phúc Khang An** (Chữ Hán: 福康安, ; 1753 - 2 tháng 7 năm 1796), biểu tự **Dao Lâm** (瑤林), Mãn Châu Tương hoàng kỳ, Phú Sát thị, là một vị tướng nhà Thanh trong lịch
**Ích An Đại quân **(益安大君, 1360 - 26 tháng 9, 1404) là vương tộc dưới thời Triều Tiên khai quốc. Cha là Triều Tiên Thái Tổ, tên thật Lý Phương Nghị (李芳毅), tự là Khoan
**Vương Thường** (chữ Hán: 王常, ? – 36), tên tự là **Nhan Khanh**, người huyện Vũ Dương, quận Dĩnh Xuyên, là tướng lĩnh khởi nghĩa Lục Lâm cuối đời Tân, đầu đời Đông Hán trong
**Trung Hiến Vương** (_chữ Hán_:忠獻王 hoặc 忠憲王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và phiên vương, quận vương hạy thân vương trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ##
**Thạch Tuyền** (chữ Hán phồn thể:石泉縣, chữ Hán giản thể: 石泉县, âm Hán Việt: _Thạch Tuyền huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị An Khang, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
**Vương cung thánh đường Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội** là một công trình nổi tiếng của Giáo hội Công giáo Rôma ở thủ đô Washington, DC, Hoa Kỳ. Công trình
nhỏ|Thống kê của Vương quốc Anh về môi trường Bài này liệt kê những vấn đề mà Vương quốc Anh đang gặp phải liên quan đến môi trường, chẳng hạn như ô nhiễm và nhiễm