✨Vương Tiễn

Vương Tiễn

Vương Tiễn (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tần.

Ông đứng ngang hàng với các danh tướng cuối thời Chiến Quốc khác là Liêm Pha, Lý Mục và chỉ đứng sau đại danh tướng bách chiến bách thắng nổi tiếng nhất thời điểm đó là Bạch Khởi.

Thân thế

Ông người ở làng Tân Dương Đông (nay thuộc đông bắc huyện Phú Bình, Thiểm Tây, Trung Quốc).

Dưới quyền Bạch Khởi

Vương Tiễn làm tướng nước Tần khi nước này đã trở nên hùng mạnh, lấn át các chư hầu còn lại thời đó. Tuy nhiên, lực lượng của các quốc gia này còn khá mạnh nên vẫn đủ sức kháng cự trước những cuộc chiến tranh do nước Tần phát động.

Trước khi trở thành đại tướng nắm quyền chỉ huy ngoài mặt trận, Vương Tiễn là tướng dưới quyền của Bạch Khởi. Ông đã tham dự trận Trường Bình nổi tiếng năm 262 TCN với quân Triệu. Trận đó quân Tần do Bạch Khởi chỉ huy đánh bại hơn 40 vạn quân Triệu, giết chết chủ tướng Triệu Quát và chôn sống 40 vạn hàng binh nước Triệu.

Sau khi tướng Bạch Khởi trái ý Tần Chiêu Tương vương và bị giết, nước Tần mất đi một viên tướng "bách chiến bách thắng" để uy hiếp chư hầu. Dù quân Tần dũng mãnh hơn quân các nước nhưng một số tướng lĩnh thay thế như Vương Hột, Hoàn Nghĩ, Mông Ngao không đủ khả năng lập chiến tích như Bạch Khởi.

Trong hoàn cảnh đó, Vương Tiễn đã nổi lên trở thành người thay thế xứng đáng vai trò của Bạch Khởi trong việc đánh đông dẹp bắc, thống nhất Trung Hoa.

Dẹp nội loạn

Tài năng của Vương Tiễn được bộc lộ từ việc dẹp loạn . Lúc đó Tần vương Chính mới lên ngôi được vài năm, trong triều nhiều người dị nghị về thân thế của vua Tần, cho rằng vua là con của thừa tướng Lã Bất Vi chứ không phải con của Tần Trang Tương vương Tử Sở. Vì thế tướng Phàn Ô Kỳ nhân cầm quân đi đánh Triệu, đã dựng một người con khác của Trang Tương vương là Trường An quân Thành Kiểu làm minh chủ để lật đổ Tần vương Chính.

Được tin, thừa tướng Lã Bất Vi bèn cử cha con Vương Tiễn, Vương Bí cùng Hoàn Nghĩ mang quân ra đón đánh. Có một lý do khiến Bất Vi tin tưởng cha con ông vì Vương Tiễn rất mực trung thành với Tần vương Chính và bản thân ông không tin vào việc vua Tần là con của Bất Vi.

Phàn Ô Kỳ chỉ là viên tướng dũng mãnh mà kém mưu mẹo. Vì vậy Vương Tiễn chỉ sau 2 trận đã đánh bại được Ô Kỳ. Ô Kỳ thua trận bỏ chạy sang nước Yên nương nhờ thái tử Đan, còn Thành Kiểu bị bắt. Tần vương Chính ra lệnh xử tử Thành Kiểu, Thành Kiểu bèn tự vẫn.

Diệt nước Triệu

Năm 236 TCN, giữa Triệu và Yên xảy ra chiến tranh. Lợi dụng cơ hội này, lấy cớ cứu nước Yên, Tần vương Chính sai Vương Tiễn, Hoàn Nghĩ và Dương Đoan Hòa chia nhau lĩnh ba đạo binh mã tấn công nước Triệu. Vương Tiễn đem quân chủ lực đánh thẳng vào Át Dữ, sau đó thừa thắng đánh lấy Liêu Dương, Nghiệp, An Dương liên tục phá được 9 thành của Triệu. Trong khi đánh Triệu, Vương Tiễn tích cực chỉnh đốn quân đội, tinh giảm quân già yếu, tăng cường quân khỏe để tăng sức chiến đấu của quân Tần, nhằm chuẩn bị đánh một đòn quyết định, tiêu diệt nước Triệu.

Năm 229 TCN, Vương Tiễn một lần nữa thụ mệnh đem quân diệt Triệu. Triệu vương Thiên phái đại tướng Lý Mục nghênh chiến. Hai bên giằng co cầm cự một năm.

Năm 228 TCN, vua Triệu mắc kế ly gián của Tần, theo lời gian thần Quách Khai mà giết chết Lý Mục. Vương Tiễn thừa cơ tấn công tổng lực Hàm Đan, bắt sống Triệu vương, diệt được nước Triệu.

Anh vua Triệu là Gia chạy lên đất Đại, tự xưng là Đại vương.

Uy hiếp nước Yên

Năm 228 TCN, mượn cớ thái tử Đan nước Yên sai Kinh Kha sang Tần mưu sát Tần vương, Vương Tiễn được lệnh mang quân tấn công nước Yên. Quân Yên hợp binh chống trả. Vương Tiễn đánh tan quân Yên ở Dịch Thủy. Tháng 10 năm sau, Vương Tiễn chiếm được kinh đô Kế của nước Yên. Yên vương Hỉ phải trốn lên Liêu Đông.

Trong quá trình chỉ huy quân đội, Vương Tiễn không chỉ giỏi chớp thời cơ tiến đánh bất ngờ mà còn biết liệu thực lực, tùy vào sự biến hóa của quân địch mà tìm ra phương pháp đánh thắng một cách linh hoạt.

Trấn an Tần vương

Năm 225 TCN, Tần vương lại phát động chiến tranh diệt Sở. Vương Tiễn bàn cần có 60 vạn quân. Tần vương nghi ngại như vậy sẽ phải lấy hết quân trong nước đi đánh. Lý Tín chỉ xin mang 20 vạn quân để diệt Sở. Tần vương nghe theo, cho rằng ông già yếu nhút nhát nên cần nhiều quân. Kết quả Lý Tín bị tướng Hạng Yên nước Sở đánh tan tành. Lý Tín bị cách chức. Tần vương Chính tự mình đi gặp Vương Tiễn nói rằng: :Ta hối hận không nghe lời tướng quân, để quân Tần đại bại. Hiện nay quân Sở đang từ hướng Tây đánh lại, uy hiếp nước Tần. Tướng quân dù đang bị bệnh, lẽ nào thấy vận mệnh nước nhà nguy vong mà không cứu?

Vương Tiễn không còn cách nào từ chối, bèn nói: :Đại vương bất đắc dĩ phải dùng thần, không cho thần 60 vạn quân thì không xong.

Tần vương thắc mắc vì sao cần nhiều quân đến thế, ông đáp: :Nước Sở đất rộng, hễ có hiệu lệnh là có thể lấy được trăm vạn quân ngay. Tôi xin sáu mươi vạn quân, còn e không địch nổi, chứ nói gì diệt nước ấy?

Tần vương chỉ còn cách nghe theo Vương Tiễn. Vương Tiễn cùng Mông Vũ thống lĩnh 60 vạn quân phạt Sở. Trong sách "Sử Ký" còn ghi lại, Vương Tiễn nắm giữ trọng binh, rất sợ Tần vương nghi ngờ, nên khi Tần vương đến đất Bá để tiễn binh, Vương Tiễn bẩm báo với Tần vương đòi phần thưởng, đại ý nói mình tuổi đã già, lương bổng cũng không dư dả nên muốn một căn nhà to và vài trăm mẫu đất. Tần Thủy Hoàng nghe xong bật cười đáp Vương Tiễn cứ yên tâm ra trận, Tần vương chắc chắn sẽ không bạc đãi ông còn nói rằng: :Đại tướng xuất chinh, còn lo gia cảnh nghèo đói ru? Vương Tiễn nói: :Làm tướng lĩnh của đại vương, có công cũng chẳng được phong hầu, tôi đây nhân lúc gần đại vương, xin chút ít điền sản làm của cải cho con cháu.

Vương Tiễn trước mỗi trận chiến lớn đều làm một việc tự bôi xấu hình tượng bản thân, biến ông thành quan tham điển hình, đó là đòi thưởng tiền, đòi phong đất, đòi nhà cao cửa rộng! Hơn nữa, càng là trận chiến lớn thì Vương Tiễn càng đòi hỏi nhiều. Có người nói với Vương Tiễn: :Tướng quân cứ một mực xin đại vương ban thưởng như vậy,chẳng phải hơi quá đáng hay sao?

Vương Tiễn giải thích: :Tần vương tính kiêu ngạo, lại không tin người, nay cử binh cả nước cho ta nắm giữ đi đánh Sở, nếu ta không xin thêm nhà cửa đất đai để ổn định cơ nghiệp cho con cháu, Tần vương nhất định sẽ nghi ngờ lòng trung thành của ta.

Việc Vương Tiễn xin xỏ, tuy có phải khổ sở trong lòng, nhưng chủ ý không phải vì phú quý, mà chẳng qua chỉ là muốn chứng tỏ mình không có ý phản nghịch, luôn trung thành với Tần vương.

Từ cổ chí kim, các vị hoàng đế vốn không sợ đám quan lại tham lam, háo sắc mà chỉ sợ những vị đại thần không có sở thích, cũng không có nhược điểm gì. Nếu đại thần có tài, lại không tham lam hay háo sắc thì chắc chắn tham vọng duy nhất chính là tranh giành ngôi vương với hoàng đế! Bởi vậy, càng là những vị tướng tài năng đức độ đến nỗi gần như hoàn hảo lại càng khiến hoàng đế đứng ngồi không yên.

Vì lẽ đó, sự đòi hỏi của Vương Tiễn ngược lại còn khiến Tần vương thấy rất vui. Nguyên nhân đơn giản là việc này chứng minh Vương Tiễn không có mưu đồ tạo phản. Do vậy, yêu cầu thứ hai của Vương Tiễn luôn được Tần Thủy Hoàng rộng rãi chấp nhận.

Thắng Hạng Yên, bình định nước Sở

Thấy Vương Tiễn cầm quân uy hiếp biên giới, Sở vương đã huy động binh lính trong nước, sai Hạng Yên chỉ huy quyết chiến với Tần. Vương Tiễn thấy quân Sở khí thế đang hăng, liền áp dụng phương pháp phòng thủ, quân Sở đến khiêu chiến, trước sau đóng cửa trại không ra đánh. Vương Tiễn hàng ngày cho quân nghỉ ngơi, ăn uống no đủ, bản thân ông thường xuyên sâu sát quân lính, quan tâm tới họ "cùng đồng cam cộng khổ" với lính. Lúc này, quân Sở không có cơ hội để tác chiến, lòng quyết tâm và nhuệ khí đã giảm. Lợi dụng thời cơ này, Vương Tiễn đã đưa quân truy quét. Quân Sở thua chạy.

Năm sau, Mông Vũ cùng Vương Tiễn hiệp đồng tác chiến bắt sống Sở vương Phụ Sô, đem đất đai nước Sở sáp nhập vào Tần. Hạng Yên lại tìm lập người tông thất nước Sở là Xương Bình quân lên ngôi, chạy về Lan Lăng. Vương Tiễn cùng Mông Vũ đánh thành, bắn chết Xương Bình quân. Hạng Yên bèn tự vẫn. Quân Sở đại bại. Quân Tần thừa thắng tiến sâu vào nước Sở.

Vương Tiễn kéo quân vào dụ yên dân, lại đem quân xuống miền nam, đến núi Tích Sơn, quân lính đào đất làm bếp, đặt nồi thổi cơm, tìm được một cái bia đá, ở trong có khắc mười hai chữ rằng: :''"Hữu tích: binh, thiên hạ tranh; vô tích: ninh, thiên hạ thanh"

Nghĩa là: :"Có thiếc thì đánh nhau, thiên hạ loạn; không có thiếc thì yên, thiên hạ thanh bình"''.

Vương Tiễn cho đòi cổ nhân đến hỏi, thì biết từ khi vua Bình vương nhà Chu dời sang đất Lạc (722 TCN), núi ấy sản sinh ra nhiều chì, thiếc nên gọi là Tích Sơn, đã bốn mươi năm nay lấy dùng không hết, nhưng gần đây thấy ít dần; tấm bia ấy cũng không biết người nào làm ra. Vương Tiễn than rằng:

:Bia này lộ ra thiên hạ từ đây được yên ổn. Có lẽ người xưa đã thấy trước được điều này, nên chon bia để báo cho người sau đó chăng! Từ nay nên đặt tên nơi này gọi là Vô Tích (không có thiếc).

Vương Tiễn kéo quân qua Cô Tô, quan giữ thành đem thành ra hàng. Ông bèn qua sông Chiết Giang mà định đất Việt. Con cháu vua Việt, từ sau khi nước Việt mất (333 TCN), ở tản mát trong khoảng Dũng Giang, Thiên Thai, dựa theo mé bể, tự xưng quân trưởng, không thống thuộc nhau. Đến lúc đó nghe oai đức vua Tần, đều đến xin hàng. Vương Tiễn thu lấy địa đồ và sở dinh, phi báo vua Tần; rồi lấy nốt cả đất Dự Chương, lập ra hai quận Cửu Giang và Cối Kê. Thế là Tần diệt được Sở.

Con cháu

Sau đó vì tuổi cao, sức yếu, Vương Tiễn cáo lão về lại Dĩnh Dương. Con ông là Vương Bí tiếp tục cầm quân diệt nốt các nước chư hầu còn thoi thóp.

Năm 222 TCN, Vương Bí bắt vua Yên là Hỉ đưa về Hàm Dương. Nhân đà thắng lợi, Vương Bí sang đánh đất Đại, bắt sống Triệu Gia, diệt hẳn nước Triệu.

Năm 223, Vương Bí từ Yên đánh xuống Tề, bắt sống Tề vương Điền Kiến, hoàn thành thống nhất Trung Hoa.

Tần vương Chính lên ngôi hoàng đế, tức là Tần Thủy Hoàng.

Năm 214 TCN, Vương Tiễn mất, thọ 90 tuổi.

Cháu nội Vương Tiễn là Vương Ly theo Mông Điềm (cháu Mông Ngao, con Mông Vũ) đi mở mang đất đai phía bắc và xây Vạn Lý Trường Thành; trong chiến tranh chống các nước chư hầu nổi dậy thời Tần Nhị Thế, Vương Ly theo Chương Hàm khổ chiến nhiều trận, cuối cùng bị Hạng Vũ (cháu nội của Hạng Yên, một bại tướng dưới tay Vương Tiễn) bắt sống trong trận Cự Lộc và bị chém.

Vương Tiễn thuộc số ít các tướng cầm quân tài ba, bách chiến bách thắng, công danh sự nghiệp và phúc thọ đều trọn vẹn trong lịch sử Trung Quốc. Việc giải tỏa mối hiềm nghi của vua Tần với ông giúp ông tránh được thảm họa như trường hợp của Bạch Khởi trước đó và Hàn Tín sau này.

Trong văn hóa đại chúng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Vương Tiên Chi** (, ? - 878) là một thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân dưới triều đại Đường Hy Tông. Mặc dù cuộc nổi dậy của ông thất bại, tuy nhiên cùng với cuộc
**Vương Tiến Dũng** (sinh năm 1949) là một cựu huấn luyện viên bóng đá người Việt Nam. Ông từng là cầu thủ đội bóng đá Thể Công (còn gọi là câu lạc bộ Quân đội)
**Vương Tiến Bảo** (chữ Hán: 王进宝, 1626 – 1685), tự **Hiển Ngô**, người Tĩnh Viễn, Cam Túc, tướng lãnh nhà Thanh, có công dẹp loạn Tam Phiên, được sử sách liệt vào "Hà Tây tứ
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
**Vương** (chữ Hán: 王) một họ trong tên gọi đầy đủ có nguồn gốc là người Á Đông. Họ này có mặt tại Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Ba họ phổ biến nhất
nhỏ|261x261px|[[Thành Hwaseong]] **Triều Tiên Chính Tổ** (chữ Hán: 朝鮮正祖; Hangul: 조선정조, 28 tháng 10 năm 1752 – 28 tháng 6 năm 1800) là vị quốc vương thứ 22 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì
**Vương Bình Phiên** (chữ Hán: 王屏藩, ? – 1680) là nghĩa tử của Bình Tây vương Ngô Tam Quế và là một trong những tướng lĩnh được ông ta tin cậy nhất. Trong cuộc chiến
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
liên_kết=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/59/112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg/170px-112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg|nhỏ|_[[Innocent Victims|Tượng Những Nạn nhân Vô tội_, một trong hai đài tưởng niệm trước đây được trưng bày ở Harrods]] Sau năm 1998, người ta cho rằng cái chết của Diana, Vương phi xứ Wales
**Vương Phụ Thần** (chữ Hán: 王辅臣, ? – 1681) biệt hiệu là **Tây Lộ Mã Diêu Tử** (西路馬鷂子), là tướng lĩnh đầu thời Thanh. Ban đầu khởi binh chống Thanh rồi đầu hàng và được
**Mikhail Yaroslavich** (tiếng Nga: Михаил Ярославич) (1271 - 1318), là công vương thứ hai của xứ Tver (1285 - 1318), đồng thời là Đại công xứ Vladimir trong những năm 1304 - 1314 và 1315–1318.
\n \n \nBông Phấn Khô Vuông VACOSI Pro PK01 Prs Small Square Pro Puff 1 Cái là dụng cụ trang điểm nền đến từ thương hiệu mỹ phẩm Vacosi của Hàn Quốc, sản phẩm chuyên
Bông phấn khô vuông PRO thuộc dòng sản phẩm chuyên nghiệp, được sản xuất theo tiêu chuẩn Hàn Quốc, là dụng cụ cần thiết khi trang điểm cá nhân và chuyên nghiệp. Thông tin sản
Khách sạn Luxury Vương tọa lạc tại khu đô thị mới Văn Giang, Hưng Yên, là khách sạn 3 sao với không gian hiện đại và vị trí thuận lợi. Khách sạn có hệ thống
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Tây Vương Mẫu** (chữ Hán: 西王母, còn gọi là **Vương Mẫu** (王母), **Dao Trì Kim Mẫu** (hay **Diêu Trì Kim Mẫu**, 瑤池金母), **Tây Vương Kim Mẫu** (西王金母), **Vương Mẫu Nương Nương** (王母娘娘) hoặc **Kim Mẫu
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Sao Hải Vương** (tiếng Anh: **Neptune**), hay **Hải Vương Tinh** (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Triều Tiên Thái Tổ** (chữ Hán: 朝鮮太祖; Hangul: 조선 태조; 4 tháng 11 năm 1335 – 27 tháng 6 năm 1408), tên khai sinh là **Lý Thành Quế (Yi Seong-gye)** là người sáng lập ra
**Triều Tiên Trung Tông** (chữ Hán: 朝鮮中宗; Hangul: 조선중종; 16 tháng 4, 1488 – 29 tháng 11, 1544) là vị Quốc vương thứ 11 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1506 đến năm
**Đinh Tiên Hoàng** (; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979), tên húy là **Đinh Bộ Lĩnh** (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Thiện Đức Nữ vương** (tiếng Hàn: 선덕여왕), tên thật là **Kim Đức Mạn**, là nữ vương của nước Tân La (một trong ba vương quốc thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên gồm Cao Câu Ly,
**Vương Thẩm Tri** (; 862–30 tháng 12 năm 925), tên tự **Tín Thông** (信通) hay **Tường Khanh** (詳卿), gọi theo thụy hiệu là **Mân Trung Ý Vương**, sau tiếp tục được truy phong là **Mân
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
**Bột Hải Cao Vương** (645 - 719) là người sáng lập của Vương quốc Bột Hải vào năm 698. Ông vốn tên là **Dae Jo-Young** (대조영, Hán-Việt: Đại Tộ Vinh), con trai của Dae Jung-sang
**Vương hậu Camilla** (tên khai sinh là **Camilla Rosemary Shand**, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1947) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và 14 vương quốc khác thuộc Khối Thịnh vượng
**Vương Diên Chính** () (m. 951?. Sau khi tướng Chu Văn Tiến giết Vương Diên Hy, rồi bản thân Chu Văn Tiến lại bị ám sát, Vương Diên Chính tuyên bố tước hiệu hoàng đế
**Hiến Ai Vương hậu** (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay **Thiên Thu Vương thái hậu** (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời
**Vương đại phi** (chữ Hán: 王大妃; Hangul: 왕대비Wangdaebi), là một tước hiệu đặc thù của nữ giới thuộc vương thất nhà Cao Ly và nhà Triều Tiên. Danh hiệu này còn dùng trong chế độ
**Vương Diễn** () (899-926), nguyên danh **Vương Tông Diễn** (), tên tự **Hóa Nguyên** (化源), cũng được gọi là **Hậu Chủ**, là hoàng đế thứ hai và cuối cùng của nước Tiền Thục thời Ngũ
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trên bán đảo Triều Tiên trong lịch sử, hiện bán đảo này bị chia cắt thành 2 nước là Cộng hòa dân chủ
**Vương Nguyên** (Giản thể: 王源, Phồn thể: 王源, Bính âm: _WángYuán_, tiếng Anh: Roy Wang, sinh ngày 8 tháng 11 năm 2000 tại Trùng Khánh, Trung Quốc) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, diễn
nhỏ|Đa Đạc - thủy tổ của Dự vương phủ **Hoà Thạc Dự Thân vương** (chữ Hán: 和碩豫親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
**_Vương Tử Hiên_** (, , sinh ngày 3 tháng 6 năm 1986), là nhà sản xuất, ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, diễn viên Hồng Kông. ## Tiểu sử Vào thập niên 50, ông nội
**Thân vương xứ Wales** (, ), còn gọi là **Công tước xứ Wales** (tại Việt Nam thường dịch sai thành **Hoàng tử/Hoàng thân xứ Wales**), là một tước hiệu theo truyền thống thường được trao
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và