Chu Vũ Vương (chữ Hán: 周武王, 1110 TCN - 1043 TCN, tên thật là Cơ Phát (姬發), nhật danh là Vũ Đế Nhật Đinh (珷帝日丁), là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Theo Hạ Thương Chu đoạn đại công trình của các nhà sử học hiện đại Trung Quốc, ông trị vì nước Chu (chư hầu của nhà Thương) trong 14 năm, sau đó lật đổ nhà Thương và làm vua nhà Chu cai trị toàn Trung Quốc từ năm 1046 TCN – 1043 TCN.
Chu Vũ vương nổi tiếng trong lịch sử vì đã lật đổ Trụ Vương tàn bạo của nhà Thương, và thành lập triều đại lâu nhất của Trung Quốc. Ông cùng Chu Văn vương, Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ và Thành Thang thường được các học giả Nho giáo nhắc đến như là hình tượng những đại minh quân hiền minh trước thời kỳ Nhà Tần.
Thân thế
Cơ Phát là con thứ hai của Tây bá hầu Cơ Xương, mẹ là Thái Tự. Người anh cả của Cơ Phát là đã mất sớm, tính đến khi trưởng thành Cơ Phát có tám người em cùng mẹ là: Quản thúc Tiên, Chu công Đán, Sái thúc Độ, Tào thúc Chấn Đạc, Thành thúc Vũ, , Khang thúc Phong, Đam thúc Tái. Trong 10 anh em thì Cơ Phát và Cơ Đán là 2 người giỏi nhất, thường giúp Cơ Xương xử lý công việc.
Theo sách Lễ ký, Văn vương thế tử thì Cơ Phát chỉ kém cha 15 tuổi. Khi cha mất, ông đã 91 tuổi. Như vậy Cơ Phát sinh khoảng năm 1137 TCN. Nhưng theo các nhà sử học hiện đại, thì Cơ Phát sinh năm 1110 TCN, giả thuyết này lại có lý, vì các tướng quân cũng như quân vương thường sinh con khi đã ngoài 20 tuổi, việc Bá Ấp Khảo sinh ra khi Cơ Xương chỉ mới 13 tuổi cũng rất là vô lý.
Kế thừa cơ nghiệp
Khi Cơ Xương còn sống đã xúc tiến nhiều việc để đánh nhà Thương lúc đó do Trụ vương tàn bạo cai trị. Cơ Xương phong Khương Tử Nha làm quân sư, dẫn quân vượt Hoàng Hà về phía đông, diệt một số [chư hầu thân] với Trụ như Côn Ngô, Sùng, chiếm cứ phần lớn vùng phía nam sông Vị, hình thành cục diện "ba phần thiên hạ có hai phần". Nền cai trị của Chu ở lưu vực sông "Vị Thủy" được củng cố.
Năm 1135 TCN, Cơ Xương mất, Cơ Phát lên thay ngôi Tây Bá Hầu. Ông chú trọng củng cố nội chính, tiếp tục dùng Khương Tử Nha làm quân sư, cho các em là Cơ Đán làm Tể tướng, Thiệu công và Tất công làm cận thần phò trợ. Trong thiên Thái Bá sách Luận ngữ Khổng Tử nói "Đối với vua Vũ vương ta chẳng có điều gì phải nói nữa. Vua Vũ vương ăn uống rất đạm bạc còn tế lễ quỷ thần rất thịnh soạn. Bình thường mặc áo quần rất giản dị, sơ sài còn khi tế lễ ăn mặc rất đẹp, mũ miện đầy đủ. Cung thất ở rất chật hẹp mà đưa toàn tâm, toàn lực ra xây dựng thủy lợi đê điều. Đối với vua Vũ vương ta thật không còn lời nào chê trách được nữa!"
Ra quân diệt Trụ
Năm 1126 TCN, ông dời đô từ đất Phong về đất Cảo, biểu hiện ý chí tiến về đông. Ông làm lễ tế Tây bá Cơ Xương ở đất Tất, rồi mang theo bài vị thờ Cơ Xương đi theo, tập hợp chư hầu ở Mạnh Tân. Khi Cơ Phát đang tập hợp binh sĩ thì có hai người con vua nước Cô Trúc là Bá Di và Thúc Tề đến xin gặp mặt và can rằng:
:Vua Trụ tuy là hôn quân bạo ngược nhưng vẫn là chúa của thiên hạ, nước Chu chẳng qua chỉ xếp hàng trong số các chư hầu. Nay ngài khởi binh, chẳng khác nào thần tử lại đi hại quân vương, như vậy có gọi là nhân chăng?
Cơ Phát biết hai người vì trung thành với nhà Thương mà đến nên ông không nghe theo lời can của họ. Sau khi điểm duyệt quân lính, Cơ Phát nhận thấy thời cơ chưa tốt nên tạm lui quân về. Trong khi đó, Trụ vương ngày càng mất lòng người. Trụ tàn ác giết vương tử Tỷ Can vì can thẳng, giam cầm đại thần Cơ Tử. Thiếu sư Cường thấy vậy liền chạy sang với Cơ Phát.
Năm 1124 TCN, Cơ Phát thấy thời cơ đã đến, bèn tuyên cáo với các nước chư hầu:
:Vua Ân tội ác nghiêm trọng, không thể không mang quân đánh dẹp.
Rồi ông khởi binh gồm 300 cỗ xe, 45000 quân mặc giáp, 3000 dũng sĩ đi đánh Ân.
Tháng 12 âm lịch năm 1124 TCN, chư hầu đều đến hội ở Mạnh Tân. Cơ Phát viết thiên Thái thệ để hiểu dụ mọi người, nêu rõ tội ác của Trụ vương để có lý do khởi binh.
Ngày Giáp tý tháng 2 âm lịch năm 1123 TCN, Cơ Phát tiến đến Mục Dã, ngoại ô kinh đô Triều Ca. Đại quân làm lễ thề trên cánh đồng lớn cách kinh đô Triều Ca của nhà Ân 70 dặm. Cơ Phát tay phải cầm búa lớn mày vàng, tay trái cầm cờ mao trắng đứng chỉ huy, cùng toàn quân tuyên thệ. Sau đó ông ra lệnh tấn công.
Trụ vương vội mang vài chục vạn quân ra nghênh địch. Quân Trụ tuy đông hơn nhưng binh sĩ chán ghét vua không muốn đánh, đặc biệt trong hàng ngũ quân Ân có nhiều nô lệ bất mãn vì bị ngược đãi nên đồng loạt bỏ gươm giáo mà chạy, mở đường cho quân của Tây bá Cơ Phát tiến vào.
Trụ vương thấy toàn quân tan rã, biết là đại cục đã hỏng, bèn chạy đến Lộc Đài, tự thiêu mà chết.
Các chư hầu và dân nhà Ân đồng loạt đến mừng Cơ Phát diệt được Trụ. Cơ Phát mang quân vào thành Triều Ca, đến chỗ Trụ tự vẫn, tự tay bắn 3 phát tên vào thây rồi dùng búa chặt đầu Trụ vương lẫn Đát Kỷ rồi đem thủ cấp treo ở cổng thành. Phí Trọng, Du Hồn và toàn bộ nịnh thần của Trụ vương đều bị chém đầu.
Dựng nhà Chu, phong chư hầu
Cơ Phát lên ngôi Thiên tử, lập ra nhà Chu. Ông truy tôn cha là Cơ Xương làm Văn vương, vì vậy đời sau gọi là Chu Văn vương (周文王). Ông làm lễ cáo tế trời đất, cho con của Trụ Vương là Vũ Canh tiếp tục cai trị đất Ân để giữ hương hoả cho nhà Ân. Các vùng xung quanh nhà Ân còn chưa ổn định, nên ông chia làm ba khu vực: phía bắc Triều Ca đến đất Bội phong cho em trai là Hoắc Thúc; phía đông Triều Ca là đất Vệ ông phong cho em là Quản Thúc, phía tây Triều Ca là đất Dung ông phong cho người em khác là Sái Thúc. Trên danh nghĩa, ba người em ông có trách nhiệm giúp đỡ Lộc Phủ nhưng trên thực tế là để giám sát, vì vậy sử gọi là Tam giám.
Chu Vũ vương tha cho Cơ Tử bị Trụ giam cầm ra khỏi tù, sai Nam Cung Quát cứu trợ cho những người dân nghèo. Sau đó ông sai Hoằng Yêu đắp mộ cho đại thần Tỷ Can nhà Ân bị Trụ giết, sai Sử Dật mang chín đỉnh của nhà Ân ra trưng bày. Trước khi trở về tây, ông sai Tôn Chúc tế hồn những binh sĩ tử trận.
Chu Vũ vương nhớ công lao các vua đời trước, ông phong cho con cháu họ làm chư hầu:
- Con cháu Thần Nông ở đất Tiêu.
- Con cháu Hoàng Đế ở đất Chúc.
- Con cháu vua Nghiêu ở đất Kế.
- Con cháu vua Thuấn ở đất Trần.
- Con cháu vua Vũ nhà Hạ ở đất Kỷ.
- Con cháu Ngô Thái Bá ở đất Ngô.
- Con cháu vua Thiếu Khang nhà Hạ ở đất Việt.
Để thưởng công cho các tướng sĩ có công phò trợ diệt Thương, ngoài ba người em trai đã phong làm Tam giám, ông phong chư hầu cho các công thần, trong đó các nước lớn là:
- Khương Tử Nha ở đất Doanh Khâu, gọi là nước Tề.
- Phong em trai là Cơ Đán ở Khúc Phụ, gọi là nước Lỗ.
- Phong cho em là Thiệu Công Thích ở nước Yên.
Dù đã diệt nhà Ân, Chu Vũ vương vẫn ngày đêm suy nghĩ về cách giữ gìn cơ nghiệp không chợp mắt. Khi bàn bạc với Chu Công Đán, ông nói:
Vì vậy ông quyết định xây dựng thêm Đông đô ở Lạc Ấp. Tuy nhiên trong thời gian ở ngôi, Chu Vũ vương chưa kịp thực hiện ý định này. Về sau em ông là Chu Công Đán làm phụ chính đã hoàn tất ý định của ông. Nhà Chu truyền tới đời Chu Bình vương đã chính thức thiên đô về đây.
Chu Vũ vương lên ngôi thiên tử khi tuổi đã cao(Theo Trúc thư kỉ niên thì ông 54 tuổi thì mất). Năm 1116 TCN, ông lâm bệnh qua đời. Con nhỏ của ông là Cơ Tụng lên ngôi, tức là Chu Thành vương. Em ông là Chu công Đán làm phụ chính.
Nhà Chu mà Cơ Phát khai nghiệp tồn tại được 867 năm, là triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Gia quyến
- Cha : Cơ Xương
- Mẹ : Thái Tự
- Vương hậu : Ấp Khương (邑姜) , con gái của Khương Tử Nha.
- Con cái :
Chu Thành Vương
Vương tử Cơ Quốc , hay Vu thúc Quốc.
Vương tử Cơ Ngu , hay Đường thúc Ngu.
Đại Cơ (大姬) , con gái lớn , gả cho Trần Hồ công.
Trong văn hóa
Chu Vũ Vương được biết đến nhiều qua bộ tiểu thuyết Phong Thần diễn nghĩa của Hứa Trọng Lâm. Những mô tả về ông tương đối khá sát với sử sách. Theo đó ông được mô tả là người văn võ song toàn, có chân mệnh đế vương nên được các chư thần giúp sức vượt qua nhiều lúc hiểm nguy, cấp bách.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chu Vũ Vương** (chữ Hán: 周武王, 1110 TCN - 1043 TCN, tên thật là **Cơ Phát** (姬發), nhật danh là **Vũ Đế Nhật Đinh** (珷帝日丁), là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong
**Chu Thành vương** (chữ Hán: 周成王; 1065-1020 TCN), là vị Thiên tử thứ hai của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì khoảng 21 năm, từ năm 1042 TCN đến năm 1021
**Chu Hiển Vương** (chữ Hán: 周顯王; trị vì: 368 TCN - 321 TCN), tên thật là **Cơ Biển** (姬扁), là vị vua thứ 35 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế
**Chu Khang Vương** (chữ Hán: 周康王, 1040 TCN - 996 TCN), là vị vua thứ ba của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì khoảng 26 năm, tính từ năm 1020 TCN
**Chu Mục Vương** (chữ Hán: 周穆王; 1027 TCN - 922 TCN) là vị quân chủ thứ năm của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 976 TCN đến năm 922
**Chu Vũ Đế** (chữ Hán: 周武帝; 543 - 21 tháng 6, 578) là Hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Chu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Vũ Vương** (chữ Hán: 武王 hoặc 禑王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách Vũ Vương (武王) hoặc Võ Vương # Văn Lang Hùng Vũ Vương # Thương Thái Vũ
**Chu Tuyên Vương** (chữ Hán: 周宣王; 846 TCN - 782 TCN) là vị quân chủ thứ 11 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì tổng cộng 46 năm, từ năm 828
**Chu Bình vương** (chữ Hán giản thể: 周平王; 781 TCN - 720 TCN), tên thật là **Cơ Nghi Cữu** (姬宜臼), là vị vua thứ 13 của nhà Chu và là vua đầu tiên thời kỳ
**Thân hầu** (? – 771 TCN) () là quân chủ nước Thân vào thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Thân là chư hầu của thiên tử nhà Chu, nằm ở khu vực nay
**Chu Noãn Vương** (chữ Hán: 周赧王; trị vì: 335 TCN - 256 TCN), tên thật là **Cơ Diên** (姬延), là vị vua thứ 37 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế
**Chu Ly Vương** hay **Chu Hy Vương** (chữ Hán: 周釐王 hay 周僖王; trị vì: 681 TCN - 677 TCN), tên thật là **Cơ Hồ Tề** (姬胡齊), là vị vua thứ 16 của nhà Chu trong
**Thân hậu** (chữ Hán: 申后; ? - ?) hay còn gọi **Thân Khương** (申姜), là Vương hậu đầu tiên của Chu U vương trong lịch sử Trung Quốc, vua thứ 12 của nhà Chu. Bà
**Tây Chu Vũ công** (chữ Hán: 西周武公), tên thật là **Cơ Cung Chi** (chữ Hán:姬共之), là vị quân chủ đời thứ tư của nước Tây Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Bột Hải Quang Tông** (682 - 737), tên thật **Đại Võ Nghệ** (), được biết đến với thụy hiệu **Vũ Vương** ( ; trị vì 719 – 737), là vị quốc vương thứ hai của
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Chu Công** (chữ Hán: 周公), tên thật là **Cơ Đán** (姬旦), còn gọi là **Thúc Đán** (叔旦), **Chu Đán** (週旦) hay **Chu Văn công** (周文公), là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Chư hầu nhà Chu** là những thuộc quốc, lãnh chúa phong kiến thời kỳ nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Hình thành Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân
**Vũ Canh** (chữ Hán: 武庚) là vương tử nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi nhà Thương bị nhà Chu lật đổ, ông đã nổi dậy chống nhà Chu nhưng bị thất bại.
**Triệu Vũ Đế** (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy **Triệu Đà** (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt và nhà Triệu, án ngữ tại
**Tần Vũ Vương** (chữ Hán: 秦武王, trị vì 310 TCN-307 TCN), tên thật là **Doanh Đảng** (嬴蕩), là vị quân chủ thứ 32 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Lưu Vũ** (, 184 TCN-144 TCN), tức **Lương Hiếu vương** (梁孝王), là tông thất nhà Hán, chư hầu vương thứ ba của nước Đại, thứ ba của nước Hoài Dương và thứ năm của nước
**Sở Vũ vương** (chữ Hán: 楚武王, trị vì: 740 TCN-690 TCN), tên thật là **Hùng Thông** (熊通) hay **Mị Thông** (羋通), là vị vua thứ 20 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
**Lưu Thắng** ( ? - 113 TCN), tức **Trung Sơn Tĩnh vương** (中山靖王), là chư hầu vương đầu tiên của nước Trung Sơn, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng
**Vũ** hay **Võ** (武) là một họ phổ biến tại Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên và Hàn Quốc. Số lượng người mang họ Vũ phổ biến đứng thứ 7 với 3,9% dân số tại
**Hạ Thương Chu đoạn đại công trình** () - _Dự án xác định niên đại Hạ Thương Chu_ -là một dự án đa ngành, kết hợp giữa các bộ môn khoa học tự nhiên với
**Lưu Tương** (chữ Hán: 刘襄, ? - 97 TCN), tức **Lương Bình vương** (梁平王), là vương chư hầu thứ bảy của nước Lương, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Tương là
**Mục Vũ Vương** (_chữ Hán_:穆武王) là thụy hiệu của một số vị phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Bắc Tống Tần
**Văn Vũ Vương** (trị vì 661–681), tên thật là **Kim Pháp Mẫn**, là quốc vương thứ 30 của Tân La. Ông thường được coi là người trị vì đầu tiên của thời kỳ Tân La
**Điệu Vũ Vương** (chữ Hán: 悼武王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ chư hầu trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách *Đông Chu Tần Điệu Vũ Vương (có các
**Trung Vũ Vương** (chữ Hán: 忠武王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của những nhân vật lịch sử ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách # Tây Hán Sa Xa Trung
**Hiếu Vũ Vương** (_chữ Hán_:孝武王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách * Lưu Tống Vũ Lăng
**Chú** (chữ Hán phồn thể: 鑄, chữ Hán giản thể: 铸, bính âm: Zhù) là một nước chư hầu nhỏ thời kỳ Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, vị trí nay thuộc khu vực
**Duyện Mục Vũ Vương** (_chữ Hán_:兖穆武王) có thể là những vị phiên vương sau: ## Danh sách *Duyện Mục Vũ Vương Cao Kế Huân nhà Bắc Tống (từng có thời kỳ thụ phong Duyện Vương,
**Sở Mục Vũ Vương** (_chữ Hán_:楚穆武王) có thể là những vị phiên vương sau: ## Danh sách *Sở Mục Vũ Vương Cao Kế Huân nhà Bắc Tống (từng có thời kỳ thụ phong Sở Vương,
**Thần Vũ Vương** (_chữ Hán_ 神武王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Đông Ngụy Bột Hải Thần Vũ Vương Cao Hoan (có thụy hiệu khác là Hiến Vũ
**Lưu Xương** (chữ Hán: 刘昌, ? - 73 TCN), tức **Triệu Khoảnh vương** (赵顷王), là vị chư hầu vương thứ 9 của nước Triệu, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Xương
**Lương Vũ Vương** (_chữ Hán_:涼武王) có thể là những vị quân chủ sau: ## Danh sách *Tiền Lương Vũ Vương (truy tôn, thụy hiệu thật là Vũ Công và Vũ Hầu) *Nam Lương Vũ Vương
**Hưng Vũ Vương** (_chữ Hán_:興武王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của môọ số vị quân chủ hoặc phiên vương trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Thụy hiệu
**Hiến Vũ Vương** (_chữ Hán_:献武王) là thụy hiệu của một số vị quốc vương, phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Bắc
**Chu Tiên Vượng** (; sinh tháng 11 năm 1963) là một chính trị gia Trung Quốc hiện đang làm thị trưởng Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc. Ông là người
**Nghĩa vụ quân sự** hay còn gọi là **quân dịch** là một nghĩa vụ bắt buộc của công dân. Ở những nước có quy định việc thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc, công
**Lưu Hoành** (chữ Hán: 劉閎, ? - 110 TCN), tức **Tề Hoài vương** (齊懷王), là vị chư hầu vương thứ 8 của nước Tề, một chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
phải|Vị trí đất tự trị Tây Vu (trị sở đặt tại Cổ Loa) trên bản đồ nước Nam Việt **Tây Vu vương** (chữ Hán: 西于王; mất năm 111 trước công nguyên (TCN)) là một tước
**Chiêu Vũ Vương** (_chữ Hán_:昭武王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quốc vương, phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ##
**Tây Chu Hoàn công** (chữ Hán: 西周桓公, trị vì: 440 TCN - 415 TCN), hay **Hà Nam Hoàn công**, tên húy là **Cơ Yết** (姬揭), là vị quân chủ đầu tiên của nước Tây Chu
**Đông Chu quân** (東周君), **Đông Chu Văn quân** (東周文君), hoặc **Đông Chu Tĩnh công** (東周靖公), **Chu Huệ vương** (周惠王), **Chu Cung chủ** (周共主) (trị vì ? - 249 TCN), tên thật là **Cơ Kiệt**, được