Chu Tuyên Vương (chữ Hán: 周宣王; 846 TCN - 782 TCN) là vị quân chủ thứ 11 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì tổng cộng 46 năm, từ năm 828 TCN đến năm 782 TCN. Ông kế vị sau 14 năm Chu Lệ vương lưu vong ở đất Di, kết thúc giai đoạn Chu Triệu cộng hòa không có quân chủ.
Sau khi kế vị, Tuyên vương trọng dụng Triệu Mục công, Doãn Cát Phủ, Trọng Sơn Phủ, Trình Bá Hưu Phụ, Quắc Văn công, Thân bá, Hàn hầu, Hiển Phụ, Nhưng Thúc các đại thần tài năng để khôi phục cơ nghiệp nhà Chu sau nhiều năm bị tàn phá bởi Lệ vương. Ông chấn chỉnh quân đội, chính trị, mang quân thảo phạt Hiểm Doãn, Tây Nhung, Hoài Di, nước Từ và nước Sở. Quốc lực nhà Chu khôi phục phần lớn, được sử xưng gọi là Tuyên vương trung hưng (宣王中兴).
Thế nhưng vào những năm cuối đời, Tuyên vương lạm dụng binh lực, dẫn đến đại bại trong trận Thiên mẫu chi chiến (千亩之战), rồi sát hại công thần, lạm dụng hình luật. Sử quan thời Minh đánh giá:"Chu Tuyên vương tuy bình Hoài Di, trong có Trọng Sơn Phủ, ngoài có Thân bá phò giúp, nhưng không thành thịnh thế, rồi bị lễ nhạc làm vơi đức, không cày tịch điền ở Thiên Mẫu, thua trận ở Thái Nguyên, giết Đỗ Bá, không nghe Quắc công khuyên ngăn, cho nên cái trung hưng không hoàn mĩ".
Thân thế
Chu Tuyên vương tên thật là Cơ Tĩnh (姬靜). Ông là con trai của Chu Lệ vương, vị quân chủ thứ 10 của Triều đại nhà Chu. Mẹ ông là Vương hậu Thân Khương (申姜), công chúa nước Thân. Ngoài ra ông còn một em trai tức là Trịnh Hoàn công.
Nương nhờ Triệu Công
Do vua cha Chu Lệ vương áp dụng chính sách bạo ngược và đàn áp dân chúng, năm 841 TCN, nhân dân nổi dậy chống lại triều đình, lật đổ Lệ Vương. Lệ Vương phải bỏ chạy đến đất Di.
Thái tử Cơ Tĩnh bị quân khởi nghĩa truy tìm. Trong cơn nguy cấp, Cơ Tĩnh trốn vào nhà đại thần Triệu Mục công. Quân khởi nghĩa nghe tin bèn đến vây nhà Triệu công đòi nộp thái tử. Triệu công bèn mang con mình ra thế mạng cho Cơ Tĩnh. Quân khởi nghĩa tưởng là thái tử, bèn giết chết con Triệu công. Cơ Tĩnh được thoát nạn. Nhân dân hả cơn tức, binh khởi nghĩa giải tán.
Chu Định công (周定公) và Triệu Mục công cùng nhau quản lý việc triều chính trong 14 năm, từ năm 841 TCN đến năm 828 TCN, gọi là thời kỳ Cộng Hòa. Trong 14 năm đó Cơ Tĩnh ẩn náu trong nhà Triệu công.
Năm 828 TCN, Chu Lệ vương qua đời. Thái tử Cơ Tĩnh được Triệu công lập lên nối ngôi, tức là Chu Tuyên vương.
Chấn hưng đất nước
Sau nhiều năm loạn lạc, quốc lực nhà Chu đã suy yếu, dân chúng li tán. Chu Tuyên vương lên ngôi, cho trùng tu vương cung, yên định lòng dân, bãi bỏ binh đao, chú trọng lễ nhạc, trọng dụng các cựu thần như Triệu Mục công, Doãn Cát Phủ, Quắc Văn công, Hàn hầu, Trọng Sơn Phủ, Thân bá..., bình Hiểm Doãn, đánh Hoài Di, Tây Nhung. Từ đó thế nước lại hùng mạnh, uy thế thiên tử tạm thời được khôi phục, chư hầu lại triều kiến vua Chu. Sử sách gọi là Tuyên vương trung hưng.. Sau đó, Tuyên vương phong Hàn hầu ở Hàn Thành (nay là đông bắc Hà Bắc), kiến lập nước Hàn.
Năm 806 TCN, Chu Tuyên vương phong em là Hữu ở đất Trịnh (nay là phía Đông Thiểm Tây), kiến lập nước Trịnh., phong cho Trọng Sơn Phủ ở đất Phiền (nay là đông nam Tây An), tức nước Phiền (樊).
Can thiệp nước Lỗ
Năm 816 TCN, quốc chủ nước Lỗ là Lỗ Vũ công cùng hai con là Cơ Quát và Cơ Huy vào triều kiến Chu Tuyên vương, từ đó nước Lỗ mới ổn định. Cũng bởi việc này đã làm cho chư hầu không còn tôn trọng Thiên tử nữa.
Giết công thần
Năm 785 TCN, Chu Tuyên vương giết đại phu Đỗ Bá. Theo Thái Bình nhiễm ký (太平广记), Chu Tuyên vương sủng ái Nữ Cưu (女鸠), người tính tình lẳng lơ, giở trò bẫy tình Đỗ Bá. Đỗ Bá không theo, Nữ Cưu bèn gièm pha Đỗ Bá với Tuyên vương. Tuyên vương nghe theo, nhưng sau đó Tả Nho khuyên can nên ông chỉ đày Đỗ Bá đến Vu Tiêu (nay thuộc Hà Nam), sau sai người ám sát.
Con Đỗ Bá là Thấp Thúc trốn sang nước Tấn, trở thành thủy tổ Phạm Thị, một trong Tấn quốc lục khanh sau này.
Chiến tranh với Khuyển, Nhung
Năm 824 TCN, Tuyên vương sai Tần Trọng đem quân đánh Nhung, năm 822 TCN, Tần Trọng bị Tây Nhung giết, Tuyên vương triệu con Tần Trọng là Doanh Kì, cấp 7000 quân đánh Nhung, kết quả Tây Nhung thất bại. Tuyên vương phong Doanh Kì làm Tây Thùy đại phu, phong cho đất cũ của Đại Lạc, đó là cơ sở cho sự hình thành của nước Tần.
Năm 805 TCN, Tấn Mục hầu nghe lệnh ông, đem quân đánh Nhung, năm 802 TCN, thắng quân Nhung ở Thiêm Mẫu (nay thuộc Sơn Tây).
Hằng năm, thiên tử thường tới Thiên Mẫu làm lễ tịch điền, nhưng Tuyên vương bỏ không làm. Quắc Văn công khuyên Tuyên vương không nên bỏ lệ nhưng vua không nghe theo. vào đánh nhà Chu. Chu Tuyên vương mang quân ra đón đánh địch. Hai bên giao chiến ở đất Thiên Mẫu, Tuyên Vương bị bại trận, cánh quân miền nam bị đánh thương vong, tan rã.
Chu Tuyên vương muốn mộ dân ở Thái Nguyên để bổ sung cho cánh quân bị mất. Trọng Sơn Phủ khuyên ông không nên động binh gây chiến nữa để yên dân nhưng Tuyên vương không nghe.
Qua đời
Năm 782 TCN, Chu Tuyên vương chưa kịp đánh báo thù Khuyển Nhung thì qua đời. Ông ở ngôi tất cả 46 năm.
Thái tử Cung Tinh lên nối ngôi, tức là Chu U vương. Triều đại nhà Chu đến đây thì diệt vong.
Nhận định
Hạ Nguyên Cát có nhận xét về ông như sau: Chu Tuyên vương bình Hoài Di, Đường Thái Tông cầm Hiệt Lợi, đương thời giảm hình phạt".
Trâu Y cũng có nhận xét rằng: "Hạ có Thiếu Khang, Thương có Vũ Đinh, Chu có Tuyên vương, Hán có Thế Tổ, Đường có Túc Tông, lúc trong nước có loạn, đã dẹp trừ được, trung hưng Triều đại, lập lại thái miếu, cho dân an viễn".
Tuy nhiên, có cũng có số ý kiến chê trách ông đối ngoại dùng binh mà thất bại liên miên, lạm sát đại thần. Hoàng Quỳnh thời Hán chê Tuyên vương:"Chu Tuyên vương không cày tịch điền ở Thiên Mẫu, Quắc Văn công khuyên mà không nghe, lại quân Nhung dấy loạn, tổn hại đến thanh danh của Tuyên vương trung hưng".
Trong Đông Chu liệt quốc
Chu Tuyên vương xuất hiện trong hồi 1 của Đông Chu liệt quốc. Sự nghiệp của ông không được mô tả chính xác trong tiểu thuyết của Phùng Mộng Long.
Theo đó, cuối thời Tuyên vương, có đứa trẻ hát bài ca:"nguyệt tương thăng, nhật tương một, tang cung ki đại, kỉ vong Chu quốc". Chu Tuyên vương ra lệnh cả nước nghiêm cấm dùng tang cung, giao cho Đỗ Bá điều tra. Sau đó Đỗ Bá điều tra không được bị ông giết, Tả Nho can ngăn nhưng Tuyên vương cũng không nghe. Tả Nho về nhà tự tử. Sau đó lúc Tuyên vương đi săn, Đỗ Bá, Tả Nho hiện về bắn ông, Tuyên vương hoảng sợ lâm bệnh qua đời.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chu Tuyên Vương** (chữ Hán: 周宣王; 846 TCN - 782 TCN) là vị quân chủ thứ 11 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì tổng cộng 46 năm, từ năm 828
**Chu U vương** (chữ Hán: 周幽王; 800 TCN - 771 TCN), tên là **Cơ Cung Tinh** (姬宮湦), là vị vua thứ 12 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông cũng là vị vua
**Chu Lệ Vương** (chữ Hán: 周厲王; 890 TCN - 828 TCN) còn gọi là **Chu Lạt vương** (周剌王) hay **Chu Phần vương** (周汾王), là vị quân chủ thứ 10 của nhà Chu trong lịch sử
**Chu Huề vương** (chữ Hán: 周携王; ~ 800 TCN - 750 TCN), là một vị vua không chính thức của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Vào thời gian trị vì của ông, tại
**Tuyên Vương** (chữ Hán: 宣王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ, phiên vương, thân vương hoặc quận vương trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Trung
**Bắc Chu Tuyên Đế** (chữ Hán: 北周宣帝; 559 – 580), tên húy là **Vũ Văn Uân** (宇文贇), tên tự **Can Bá** (乾伯), là một hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung
**Cao Ly Trung Tuyên Vương** (Hangul: 고려 충선왕; chữ Hán: 高麗 忠宣王; 20 tháng 10 năm 1275 – 23 tháng 6 năm 1325, trị vì 2 lần: năm 1298 và 1308 – 1313) là quốc
**Chu Vũ Vương** (chữ Hán: 周武王, 1110 TCN - 1043 TCN, tên thật là **Cơ Phát** (姬發), nhật danh là **Vũ Đế Nhật Đinh** (珷帝日丁), là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong
**Quân chủ tuyển cử** là một chế độ quân chủ cai trị bởi một vị vua được bầu lên, trái ngược với một chế độ quân chủ cha truyền con nối, trong đó ngôi vua
**Nhân Tuyên Vương hậu** (chữ Hán: 仁宣王后; Hangul: 인선왕후; 9 tháng 2 năm 1619 - 19 tháng 3 năm 1674) hay còn gọi **Hiếu Túc Đại phi** (孝肅大妃), là Vương phi của Triều Tiên Hiếu
**Chu Huệ Vương** (chữ Hán: 周惠王; trị vì: 676 TCN - 652 TCN), tên thật là **Cơ Lãng** (姬閬), là vị vua thứ 17 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con
**Bột Hải Thánh Tông** (trị vì 818 - 830) là vị quốc vương thứ 10 của vương quốc Bột Hải. Ông có tên thật là **Đại Nhân Tú** (대인수, 大仁秀, Dae In-su). Trong giai đoạn
**Sở Tuyên vương** (chữ Hán: 楚宣王, trị vì 369 TCN-340 TCN), tên thật là **Hùng Sự** (熊该), hay **Mị Sự** (羋该), là vị vua thứ 38 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Tề Tuyên vương** (chữ Hán: 齊宣王, trị vì 342 TCN-323 TCN hay 319 TCN-301 TCN), tên thật là **Điền Cương** (田疆), là vị vua thứ năm của nước Điền Tề - chư hầu nhà Chu
**Chư hầu nhà Chu** là những thuộc quốc, lãnh chúa phong kiến thời kỳ nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Hình thành Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân
Thời kỳ **Cộng hòa** (chữ Hán: 共和; 841 TCN-828 TCN) hay **Chu Thiệu Cộng hòa** (周召共和) trong lịch sử cổ đại Trung Quốc là một khoảng thời gian ngắn thời Tây Chu không có vua
**Vũ Tuyên Vương** (chữ Hán: 武宣王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Ngũ Hồ thập lục quốc Tiền Yên Vũ Tuyên Vương (sau được truy tôn thành Vũ Tuyên
**Trung Tuyên Vương** (chữ Hán: 忠宣王) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử ở khu vực Viễn Đông thời phong kiến. ## Danh sách *Bắc Tống Ngụy Trung Tuyên Vương Phù Ngạn
**Văn Tuyên Vương** (_chữ Hán_:文宣王) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử rất quan trọng ở khu vực Viễn Đông thời phong kiến. ## Danh sách *Văn Tuyên Vương, thụy hiệu ngắn
**Cung Tuyên Vương** (_chữ Hán_:恭宣王) là tước hiệu hoặc thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử rất quan trọng ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Tước hiệu *Cung Tuyên Vương
**Lưu Hưng** (chữ Hán: 劉興; ? - 8 TCN), thụy hiệu **Trung Sơn Hiếu vương** (中山孝王), là một hoàng tử nhà Hán, Chư hầu Vương thứ 8 của nước Trung Sơn, một trong những quốc
**Tấn Tuyên Vương** (_chữ Hán_:晉宣王) có thể là: ## Danh sách *Tấn Tuyên Vương Tư Mã Ý, quyền thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc (sau được truy tôn là Tuyên Đế, thời Tào Ngụy
**Chữ khoa đẩu** (Tiếng Hán: 蝌蚪文 khoa đẩu văn, 蝌蚪书 khoa đẩu thư, 蝌蚪篆 khoa đẩu triện, "khoa đẩu" nghĩa là nòng nọc) là khởi nguồn của chữ Trung Quốc cổ Triện thư của Chữ
**Chu Tiên Vượng** (; sinh tháng 11 năm 1963) là một chính trị gia Trung Quốc hiện đang làm thị trưởng Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc. Ông là người
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
Chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh bắt đầu từ Alfred Vĩ đại với danh hiệu _Vua của Anglo-Saxons_ và kết thúc bởi Nữ vương Anne, người đã trở thành Nữ vương Vương quốc
**Phiên vương quốc** (Hán-Việt: 藩王國, tiếng Anh: Princely state), gọi tắt **phiên quốc**, hoặc **thổ bang**, là một quốc gia chư hầu nằm dưới quyền cai trị của các hoàng tộc bản địa Ấn Độ,
**Cơ mật viện Tôn kính nhất Quốc vương Bệ hạ** (), thường được gọi là **Cơ mật viện Anh**, là cơ quan tư vấn chính thức cho quân chủ của Vương quốc Liên hiệp Anh
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Chu Vũ Đế** (chữ Hán: 周武帝; 543 - 21 tháng 6, 578) là Hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Chu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
thumb|[[Johann Otto von Gemmingen, Giám mục vương quyền của Augsburg (1591–1598)]] **Giám mục vương quyền** (tiếng Đức: _Fürstbischof_; tiếng Anh: _Prince-bishop_), hay **Thân vương Giám mục**, **Vương công Giám mục**, là danh xưng dùng để
**Seborga**, tên chính thức **Thân vương quốc Seborga** (tiếng Ý: _Principato di Seborga_) là một vi quốc gia tuyên bố vùng đất rộng 14 km tại tỉnh Imperia, vùng Liguria, Ý là lãnh thổ của mình.
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
**Vương quốc Napoli** (tiếng La Tinh: _Regnum Neapolitanum_; tiếng Ý: _Regno di Napoli_; tiếng Napoli: _Regno 'e Napule_), còn được gọi là **Vương quốc Sicily**, là một nhà nước cai trị một phần Bán đảo
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Đội tuyển bóng đá nữ Olympic Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là đội tuyển đại diện cho Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ở nội dung môn bóng đá nữ
nhỏ|Chiếc [[mũ cối (ở đây là mũ thời Đệ nhị Đế chế Pháp) là một hình tượng đại diện cho chủ nghĩa thực dân.]] **Chủ nghĩa thực dân** (Tiếng Anh: _colonialism_) là hình thái xã
**Cao Ly Trung Túc Vương** (Hangul: 고려 충숙왕; chữ Hán: 高麗 忠肅王; 30 tháng 7 năm 1294 – 3 tháng 5 năm 1339, trị vì 1313 – 1330 và 1332 – 1339), là vua thứ
**Vương quốc Lombardo–Veneto** (, ; ) là một vùng đất cấu thành (Lãnh thổ vương quyền) nên Đế quốc Áo, ra đời từ năm 1815 đến năm 1866. Nó được thành lập vào năm 1815
thumb|_Eduskunta_, quốc hội của [[Đại công quốc Phần Lan (lúc đó là một phần của Nga), có quyền bầu cử phổ thông vào năm 1906. Một số tiểu bang và vùng lãnh thổ có thể
**Cao Ly Trung Tông** (Hangul: 고려 충렬왕, chữ Hán: 高麗 忠烈王; 3 tháng 4 năm 1236 – 30 tháng 7 năm 1308, trị vì 1274 – 1308), tên thật là **Vương Xuân** (왕춘, 王賰), còn
**Yên Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 燕昭襄王; trị vì: 311 TCN-279 TCN), thường gọi là **Yên Chiêu Vương** (燕昭王), là vị vua thứ 39 hay 40. ## Lên ngôi trong loạn lạc Vua cha Yên
**Vệ Tuyên công** (chữ Hán: 衞宣公; trị vì: 718 TCN-700 TCN), tên thật là **Cơ Tấn** (姬晉), là vị vua thứ 15 của nước Vệ – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Thái thượng vương** (chữ Hán:太上王), hay **Thái thượng quốc vương** (太上國王), gọi tắt là **Thượng Vương** (上王), là ngôi vị mang nghĩa là "vua bề trên" trong triều đình phong kiến ở khu vực Á
**Vương Nghị** (chữ Hán: 王誼, 540 – 585), tự Nghi Quân, hộ tịch ở Lạc Dương, Hà Nam , đại thần nhà Bắc Chu cuối thời Nam-Bắc triều, đầu nhà Tùy. ## Thân thế Tổ