Lưu Vũ (, 184 TCN-144 TCN), tức Lương Hiếu vương (梁孝王), là tông thất nhà Hán, chư hầu vương thứ ba của nước Đại, thứ ba của nước Hoài Dương và thứ năm của nước Lương, ba chư hầu quốc dưới thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông từng tham gia dẹp loạn bảy nước và tranh chấp ngôi thái tử trong triều đình nhà Hán, trở thành chư hầu vương có thế lực nhất đương thời, từng được Đường Cao Tổ nhận xét: Tuy là thần tử nhưng không khác gì thiên tử.
Ba lần đổi phong quốc
Lưu Vũ là con trai thứ năm của Hán Văn Đế Lưu Hằng, vua thứ năm của nhà Hán. Mẹ ông là Đậu hoàng hậu. Ngoài Lưu Vũ, Đậu cơ còn có hai người con khác là Công chúa Quán Đào và Hán Cảnh Đế Lưu Khải.
Lưu Vũ chào đời vào năm 184 TCN ở Đại quốc, lúc đó cha ông còn là Đại vương, chưa lên ngôi thiên tử. Sang năm 180 TCN, Lưu Hằng được đại thần ở Trường An tôn làm thiên tử, trở thành vua Văn Đế của triều Hán, Lưu Vũ từ đó được mang thân phận hoàng tử.
Năm 178 TCN, Lưu Vũ lên 6 tuổi, vua cha Hán Văn Đế hạ chiếu lập ông làm Đại vương, cai quản nước Đại, phong quốc của Văn Đế khi chưa lên ngôi. Hai năm sau, 176 TCN, ông được đổi phong làm Hoài Dương vương (淮阳王). Sang năm 169 TCN, em ông là Lương Hoài vương Lưu Ấp mất, Lưu Vũ được đổi phong làm Lương vương, đóng ở Huy Dương. Lưu Vũ giữ chức vụ Lương vương này cho đến tận lúc qua đời (144 TCN).
Năm 164 TCN, Lưu Vũ từ nước Lương vào triều yết kiến Hán Văn Đế. Về sau, ông liên tục vào chầu vua Hán vào các năm 162 TCN và 161 TCN và 158 TCN, từng được Hán Văn Đế giữ lại nhưng không được lâu.
Tham gia dẹp loạn bảy nước
Năm 157 TCN, Hán Văn Đế qua đời, thái tử Lưu Khải nối ngôi, tức là Hán Cảnh Đế. Cảnh Đế thường uống rượu với Lưu Vũ, trong lúc say sưa có nói rằng
: Sau này khi trẫm thiên thu vạn tuế sẽ truyền ngôi cho ngươi.
Lưu Vũ cố ý từ tạ, nhưng thực ra vui mừng trong lòng. Đậu Thái hậu vốn thương yêu Lưu Vũ, cũng nhân cơ hội này tìm cách nâng đỡ để ông được làm Hoàng Thái đệ.
Năm 155 TCN, theo đề xuất của Tiều Thố, Hán Cảnh Đế ra lệnh cắt đất phong của các chư hầu để làm giảm thế lực. Bảy nước chư hầu hoảng sợ, tôn Ngô vương Tị làm minh chủ, cử binh từ phía đông chống Hán, khởi đầu loạn bảy nước. Quân bảy nước nhanh chóng tiến về phía tây, thế lực rất lớn. Cảnh Đế lo sợ, bèn hạ lệnh giết Tiều Thố giảng hòa nhưng Ngô vương không chịu lui.
Quân bảy nước kéo tới bao vây thành Huy Dương của nước Lương. Cảnh Đế sai thái úy Chu Á Phu đánh dẹp. Á Phu đóng quân ở Xương Ấp nhưng chỉ cắt đường liên lạc của Ngô, Sở với 4 nước kia, hút quân Ngô vào chiến trường nước Lương chứ không cứu Lương. Lưu Vũ sai sứ đến Trường An cầu cứu. Cảnh Đế nghe lời Đậu Thái hậu, hạ lệnh cho Chu Á Phu mau chóng cứu Lương, Á Phu không nghe.
Quân Ngô - Sở vượt sông Hoài rồi đánh vào thành Cức Bích, giết hơn vạn người. Lưu Vũ giữ quân ở thành Tuy Dương, chống cự quân Ngô, sau đó sai Hàn An Quốc, Trương Vũ làm Đại tướng quân, chống lại Ngô - Sở. Ngô - Sở không sao tiến lên được, sau mấy tháng phải giải vây, quay sang đánh trực tiếp với quân Chu Á Phu, cuối cùng bị phá. Ngô vương Tị bị giết chết, sáu chư hầu còn lại đều phải tự tử. Loạn bảy nước chấm dứt.
Khi dẹp loạn bảy nước, Lưu Vũ lập được công to, được tăng thêm phong ấp, mở rộng phía bắc đến Thái Sơn, tây tới Cao Dương, tổng cộng hơn 40 thành, trở thành chư hầu có lãnh thổ lớn nhất lúc đó.
Náo loạn triều đình, tranh ngôi thái tử
Lưu Vũ được trọng dụng, lại có Đậu Thái hậu che chở, nên ra sức làm nhiều điều trái phép tắc. Ông tự ý đặt phép tắc cho Lương Quốc, xây vườn Đông Uyển rộng hơn 300 dặm, xây dựng lại cung thất, quy mô hơn cả triều đình. Sau đó lại chiêu mộ nhiều binh mã vào việc riêng, đặt quan chức nhiều quá quy định dành cho vua chư hầu, mỗi lần đi săn bắn đều tiếm nghi vệ thiên tử. Ông còn chiêu mộ nhiều văn sĩ võ tướng khắp các nơi về phục vụ cho mình như Dương Thắng (羊胜), Công Tôn Quỷ (公孫詭), Trâu Dương (邹阳) ... Công Tôn Quỷ có nhiều tà kế, được Lưu Vũ sủng ái, phong làm Công Tôn Tướng quân. Sau đó, Lưu Vũ còn sai chế tạo ra hàng vạn binh khí cung nỏ, thu nhiều vàng bạc vào phủ khố, thành ra trong phủ khố có hơn vạn tiền, châu ngọc nhiều như kho trong kinh thành.
Tháng 10 năm 150 TCN, Lương vương Lưu Vũ vào triều. Hán Cảnh Đế nghênh đóng ở Quan Hạ. Cảnh Đế muốn lưu ông lại kinh, lấy lý do để chăm lo cho thái hậu. Lưu Vũ lại được đi săn cùng Cảnh Đế, các quan viên ông dẫn theo từ nước Lương, từ Thị trung, Lang trung khi vào kinh đều được tự do ra vào Thiên tử môn, chẳng khác gì hoạn quan trong triều.
Tháng 11 cùng năm, Cảnh Đế phế Thái tử Lưu Vinh, giáng làm Lâm Giang vương.
Đậu Thái hậu nhân cơ hội này khuyên Cảnh Đế lập Lưu Vũ làm Thái đệ như đã hứa trước đây. Ban đầu Cảnh Đế đồng ý, tuy nhiên sau khi bàn bạc với đại thần Viên Áng lại thay đổi ý định vì Viên Áng cho rằng việc này là không nên. Lương vương tức giận, bỏ về nước.
Thất thế
Tháng 4 năm 149 TCN Cảnh Đế lập con mình là Giao Đông vương Lưu Triệt làm thái tử. Lưu Vũ oán giận Viên Áng khuyên Cảnh Đế không lập mình, bèn bàn mưu với Dương Thắng, Công Tôn Quỷ, rồi bí mật sai sát thủ đến Trường An giết chết Viên Áng cùng hơn 10 đại thần khác. Viên Áng bị đâm chết, tuy nhiên sát thủ bị bắt lại. Cuối cùng triều đình điều tra được sát thủ từ nước Lương đến. Cảnh Đế bèn sai người đến Lương Quốc điều tra. Lưu Vũ hoảng sợ, nghe lời Hàn An Quốc lệnh cho Thắng và Quỷ tự sát, nhưng việc không dừng lại, Cảnh Đế lại tiếp tục điều tra. Lưu Vũ hoảng sợ, sai Hàn An Quốc đến Trường An mang theo thi thể của Thắng và Quỷ, cầu xin Thái hậu giúp mình. Đậu Thái hậu muốn giúp ông, bèn nhịn ăn để gây sức ép với Cảnh Đế. Cảnh Đế bất lực, đành nghe theo lời sứ giả, đổ hết chuyện này cho Thắng và Quỷ, chấm dứt điều tra. Tuy nhiên Lưu Vũ không còn được Cảnh Đế sủng ái như trước nữa.
Qua đời
Năm 144 TCN, Lưu Vũ vào triều yết kiến Cảnh Đế, muốn xin Cảnh Đế cho mình ở Trường An để chăm sóc Thái hậu, nhưng Cảnh Đế không cho, ông đành phải quay về nước. Tháng 6 năm đó, Lưu Vũ bị bệnh nhiệt, sau khi về tới Lương Quốc thì chết, thọ 41 tuổi, làm Lương vương được 25 năm.
Lương vương Lưu Vũ rất có hiếu với Đậu Thái hậu, khi Thái hậu bệnh, ông nhịn ăn mà chăm sóc, nhiều lần muốn ở lại Trường An hầu hạ, nên được Thái hậu yêu. Đến khi ông mất, Thái hậu khóc mà nói rằng:
:Đế quả nhiên giết con ta rồi.
Cảnh Đế nghe được thì sợ, không biết xử trí ra sao, sau đó mới theo lời Trưởng công chúa, phân Lương Quốc làm năm, lập các con của Lưu Vũ làm 5 vương ở các nước là Lương, Tế Xuyên, Tế Đông, Sơn Dương, Tế Âm. Đậu Thái hậu mới bằng lòng.
Gia quyến
Cha: Hán Văn Đế
Mẹ: Đậu Thái hậu
Anh chị em
Anh
Hán Cảnh Đế Lưu Khải
Chị
Quán Đào công chúa
Em trai
Đại vương Lưu Tham
*Lương Hoài vương Lưu Ấp
*Em gái
Xương Bình công chúa
*Con cái
Lương Cung vương Lưu Mãi
Tế Xuyên vương Lưu Minh
Tế Đông vương Lưu Bành Ly
Sơn Dương vương Lưu Định
**Tế Âm vương Lưu Bất Chí
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Vũ** (, 184 TCN-144 TCN), tức **Lương Hiếu vương** (梁孝王), là tông thất nhà Hán, chư hầu vương thứ ba của nước Đại, thứ ba của nước Hoài Dương và thứ năm của nước
**Lưu Tương** (chữ Hán: 刘襄, ? - 97 TCN), tức **Lương Bình vương** (梁平王), là vương chư hầu thứ bảy của nước Lương, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Tương là
**Lưu Hữu** (, mất năm 181 TCN) là con trai thứ sáu của Hán Cao Tổ, vị hoàng đế khai quốc của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông đồng thời là vua của
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Lưu Vũ Chu** (, ? - 622?) là một thủ lĩnh nổi dậy chống lại quyền cai trị của triều Tùy. Ông được Đông Đột Quyết lập làm khả hãn, tự xưng đế, song ban
**Lương Vương** (_chữ Hán_:梁王 hoặc 凉王 hay 良王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số nhân vật lịch sử ở khu vực Á Đông dưới chế độ quân chủ. ## Thụy hiệu Lương
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Vương Dung** (, 877?-921), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và sau trở thành người cai trị duy nhất của nước Triệu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thời Đường, Vương Dung thoạt
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Nam Tề Vũ Đế** (chữ Hán: 南齊武帝; 440–493), tên húy là **Tiêu Trách** (), tên tự **Tuyên Viễn** (宣遠), biệt danh **Long Nhi** (龍兒), là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Lưu Cứ** (Phồn thể: 劉據; giản thể: 刘据, 128 TCN - 91 TCN), hay còn gọi là **Lệ Thái tử** (戾太子) hoặc **Vệ Thái tử** (衛太子), là Hoàng trưởng tử của Hán Vũ Đế Lưu
**Tiền Lưu** (chữ Hán: 錢鏐; 10 tháng 3 năm 852-6 tháng 5 năm 932, tên tự là **Cụ Mỹ** (具美), tiểu tự là **Bà Lưu** (婆留), gọi theo thụy hiệu là **Ngô Việt Vũ Túc
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Lưu Nghĩa Tuyên** (chữ Hán: 刘义宣, 413 – 454), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Nghĩa Tuyên là con
**Lưu Đức Hoa** (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1961) là một nam diễn viên, ca sĩ kiêm nhà sản xuất điện ảnh người Hồng Kông. Anh là một trong Tứ Đại Thiên Vương của
**Nhà Lương** () (502-557), còn gọi là **nhà Nam Lương** (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**Lưu An** (chữ Hán: 刘安, 179 TCN – 122 TCN), thường được hậu thế xưng tụng là **Hoài Nam tử** (淮南子), là Quốc vương chư hầu thứ tư của nước Hoài Nam thời nhà Hán
**Triệu vương** (趙王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và thân vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Triệu nhà Chu. ## Việt Nam ### Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
**Lưu Lập** (chữ Hán: 刘立, ? - 3), là chư hầu vương thứ mười hai của nước Lương dưới thời Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Lập là con cháu của Hán Văn
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志, 460 – 513), tự Thứ Đạo, người Lâm Nghi, Lang Da, quan viên, nhà thư pháp phục vụ các chánh quyền Lưu Tống, Nam Tề, Lương thời Nam Bắc triều
**Vương Hiến Nguyên** (chữ Hán: 王憲嫄; 427 – 9 tháng 10, 464), thụy hiệu **Văn Mục hoàng hậu** (文穆皇后), là hoàng hậu của Lưu Tống Hiếu Vũ Đế Lưu Tuấn, mẹ của Tiền Phế Đế
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Lưu Tị** (Trung văn giản thể: 刘濞, phồn thể: 劉濞, bính âm: _Liú Pì_, 216 TCN-154 TCN), hay **Ngô vương Tị** (吳王濞), là tông thất nhà Hán, vua của nước Ngô, chư hầu nhà Hán
**Lương Giản Văn Đế** (梁簡文帝, 503–551), tên húy **Tiêu Cương** (蕭綱), tên tự **Thế Toản** (世纘), tiểu tự **Lục Thông** (六通), là một hoàng đế của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Vương Lâm** (chữ Hán: 王琳, 526 – 573) là tướng lãnh nhà Lương và nhà Bắc Tề thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Lâm tự Tử Hành, người huyện
**Vương Huyền Mô** (chữ Hán: 王玄谟, 388 – 468) là tướng lãnh nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Huyền Mô tự Ngạn Đức. Gia đình của
Dưới đây tường bày tuồng cải lương đã được chứng nhận trong trường kì lịch sử theo soạn giả và nhan đề. ## Bạch Mai *Anh hùng náo, hay Sở Vân cứu giá *Bao Công
**Lương Nguyên Đế** (梁元帝), tên thật là **Tiêu Dịch** (chữ Hán: 蕭繹; 508 – 555), là vị vua thứ ba của nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Vũ Văn Sĩ Cập** (tiếng Trung: 宇文士及, bính âm: Yǔwén Shìjí) (? - 11 tháng 11 năm 642), tự **Nhân Nhân** (仁人), thụy hiệu **Dĩnh Túng Công** (郢縱公), là người Trường An, Ung Châu. Ông
**Đại Vương** (chữ Hán: 大王) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ, ngoài ra **Đại Vương** (代王) còn là tước hiệu của một số vị quân chủ. ## Thụy hiệu
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Vương quốc Lưu Cầu** (tiếng Okinawa: _Ruuchuu-kuku_; _Ryūkyū Ōkoku_; ) là một vương quốc thống trị phần lớn quần đảo Ryukyu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Các vua Lưu Cầu đã thống
**Tây Lương Minh Đế** (西梁明帝, 542 – 585), tên húy **Tiêu Khuy** (), tên tự **Nhân Viễn** (仁遠), là một hoàng đế của chính quyền Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như phụ
**Lưu Tham** (chữ Hán: 刘參, ? - 162 TCN), tức **Đại Hiếu vương** (代孝王), là vương chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Trong cuộc đời mình ông từng giữ các tước vị
**Lưu Tiến** (chữ Hán: 劉進; 113 TCN - 91 TCN), còn gọi **Sử hoàng tôn** (史皇孫), là con trai của Lệ Thái tử Lưu Cứ, do đó là cháu nội của Hán Vũ Đế Lưu
**Vương Bảo Minh** (chữ Hán: 王寶明, 455–512), thụy hiệu **Văn An hoàng hậu** (文安皇后), hay còn có hiệu là **Tuyên Đức Thái hậu** (宣德太后), là thái tử phi của thái tử Tiêu Trưởng Mậu và
**Lưu Mãi** (, ?-137 TCN), tức **Lương Cung vương** (梁恭王 hay 梁共王), là vị tông thất nhà Hán, vua thứ sáu của nước Lương, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Mãi
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Vương Tử Văn** (sinh ngày 28 tháng 2 năm 1987 tại Tứ Xuyên, Thành Đô) là một diễn viên đoạt nhiều giải thưởng, người mẫu Trung Quốc . ## Tiểu sử Ông của Vương Tử