✨Vương Trấn Ác

Vương Trấn Ác

Vương Trấn Ác (chữ Hán: 王镇恶, 11 tháng 6, 373 – 7 tháng 3, 418), người huyện Kịch, quận Bắc Hải, tướng lĩnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.

Thiếu thời

Ông nội Vương Trấn Ác là Vương Mãnh, thừa tướng, danh thần nhà Tiền Tần thời Ngũ Hồ Thập lục quốc, rất được người miền bắc kính trọng. Cha ông là Vương Hưu, làm đến thái thú Hà Đông của nhà Tiền Tần.

Trấn Ác sinh ngày 5/5 ÂL, người nhà cho là ngày xấu, muốn giao cho họ hàng nuôi nấng; Vương Mãnh lại cho rằng đứa trẻ này sinh cùng ngày với Mạnh Thường quân, ắt ngày sau sẽ làm nên nghiệp lớn; vì vậy Mãnh đặt tên cho cháu là Trấn Ác.

Trấn Ác lên 13 tuổi thì Tiền Tần đế Phù Kiên bị Diêu Trường sát hại (385), Quan Trung nhiễu loạn; ông lánh nạn ở khoảng Hào, Thằng, nương nhờ người Thằng Trì là Lý Phương, được đãi ngộ rất tốt. Trấn Ác nói: “Nếu gặp được chúa anh hùng, giành được tước Vạn hộ hầu, sẽ báo đáp ân tình hôm nay.” Phương đáp: “Anh là cháu nội của thừa tướng, nhân tài như vầy, lo gì không được giàu sang. Đến khi ấy xin được dùng làm lệnh của bổn huyện, là đủ rồi!” Về sau Trấn Ác theo chú là Vương Diệu lưu vong đến Kinh Châu; ông đọc binh thư các nhà, bàn luận quân quốc đại sự, tuy cưỡi ngựa không giỏi, giương cung rất yếu, nhưng có ham muốn tung hoành thiên hạ, tính cách dũng cảm quyết đoán.

Khởi nghiệp

Quyền thần nhà Đông Tấn là Lưu Dụ bắc phạt Nam Yên (409), có người tiến cử Trấn Ác – đang làm huyện lệnh Lâm Lễ thuộc quận Thiên Môn. Lưu Dụ lập tức sai sứ giả triệu ông. Sau khi nói chuyện, Lưu Dụ rất hài lòng, giữ ông lại qua đêm. Sáng hôm sau, Lưu Dụ nói với liêu tá rằng: “Trấn Ác là cháu nội của Vương Mãnh, có thể nói là cửa tướng có tướng vậy!” Lập tức lấy Trấn Ác làm Thanh Châu trị trung tòng sự sử, Hành Tham trung quân thái úy quân sự, Thự Tiền bộ tặc tào. Trấn Ác tham gia kháng cự nghĩa quân Lư Tuần ở Tra Phổ, lập nhiều chiến công, được phong Bác Lục huyện Ngũ đẳng tử.

Trấn áp Lưu Nghị

Lưu Dụ mưu tính trấn áp thứ sử Kinh Châu là Lưu Nghị, Trấn Ác nói: “Ngài nếu có việc ở phía tây, xin cấp cho trăm chiến thuyền làm tiền khu.” Năm Nghĩa Hi thứ 8 (412), Nghị có bệnh xin lấy em họ là Duyện Châu thứ sử Lưu Phiên làm phó cho mình, Dụ vờ đồng ý. Tháng 9 ÂL, Dụ phát động tấn công, chuyển Trấn Ác làm Tham quân sự, gia Chấn vũ tướng quân. Dụ đến Cô Thục , sai Trấn Ác soái Long tương tướng quân Khoái Ân đem 100 chiến thuyền đi trước, đó là ngày 29 ÂL. Dụ căn dặn Trấn Ác: cho phép ông tự cân nhắc, đánh được thì đánh, không đánh được thì thiêu hủy chiến thuyền của địch, rồi neo thuyền bên bờ đợi đại quân; tuyên cáo chiếu chỉ định tội của Lưu Nghị, văn thư xá tội cho tướng sĩ của ông ta và thư tay của Dụ; trên đường thì xưng là “Lưu Duyện Châu đến”. Trấn Ác nhận mệnh, liền đêm ngày lên đường, chờ gió ở Thước Châu, Tầm Dương, Hà Khẩu, Ba Lăng mất 4 ngày; ngày 12 tháng 10 ÂL đến Dự Chương khẩu, cách thành Giang Lăng 20 dặm.

Trên đường đi, Trấn Ác đánh tiếng là “Lưu Duyện Châu đến”, người Kinh Châu tin là thật, nên không gặp trở ngại gì. Trấn Ác ở Dự Chương khẩu bỏ thuyền lên bờ; Khoái Ân đem quân đi trước, ông theo sau. Trấn Ác để lại một, hai người giữ thuyền, ước tính thời gian tiến quân đến thành Giang Lăng, căn dặn họ khi đó lên bờ cắm 6, 7 ngọn cờ, gõ trống liên hồi, ra dáng như đại quân đang đến. Trấn Ác một mặt chia hậu quân đốt thuyền ở quân Kinh Châu ở Giang Tân, một mặt căn dặn tiền quân nếu có ai hỏi, thì xưng là “Lưu Duyện Châu đến”. Quân – dân Kinh Châu đều tin là thật.

Còn cách thành 5, 6 dặm, quân của Trấn Ác gặp tướng lãnh thân cận của Lưu Nghị là Chu Hiển – đem theo hơn 10 kỵ binh, vài mười bộ binh – muốn ra Giang Tân. Hiển hỏi họ là ai, đáp rằng “Lưu Duyện Châu đến”; Hiển tiếp tục hỏi Lưu Phiên ở đâu, đáp rằng “ở đằng sau”. Hiển thấy đội quân này trang bị đầy đủ, ngóng thấy thuyền hạm ở Giang Tân bị thiêu, khói lửa ngút trời, lại nghe tiếng trống dồn dập, biết là không phải Lưu Phiên, liền giục ngựa chạy về báo với Nghị, đồng thời ra lệnh đóng cửa thành. Trấn Ác cũng tiến nhanh, binh sĩ chạy kịp vào, nhờ đó mở được cửa đông của thành ngoài.

Khoái Ân vào cửa đông, liền lui về phía bắc đánh Xạ đường, tiến đánh cửa đông của thành trong. Trấn Ác vào cửa đông, rồi đánh thẳng vào cửa tây, chia quân đánh cửa nam của thành trong. Ở thành ngoài, Lưu Nghị có 8 đội quân, hơn ngàn giáp sĩ, phòng bị nghiêm ngặt; ở thành trong có 6 đội, hơn ngàn người – do tướng cũ của Bắc phủ binh chỉ huy; còn có tướng người Kinh Châu cùng quan lại, sai dịch hơn 2000 người. Đôi bên giao chiến từ giờ cơm sáng cho đến giữa trưa, quân Kinh Châu tan chạy hoặc quy hàng gần hết. Trấn Ác vào thành thì lập tức lựa chiều gió phóng hỏa, thiêu hủy cửa nam và cửa đông thành ngoài; sai người gởi 3 thư hàm: chiếu chỉ, xá văn và thư tay của Lưu Dụ cho Lưu Nghị, ông ta đều đốt đi không xem. Qua khỏi giữa trưa, quân của Trấn Ác khoét được một cái huyệt trên tường – cách cửa đông của thành trong 30 bộ về phía bắc; bọn họ lọt vào thành càng lúc càng nhiều, cùng quân Kinh Châu dùng binh khí ngắn kịch chiến. Vì quân Kinh Châu vẫn chưa tin rằng Lưu Dụ sẽ đến, Trấn Ác thấy tướng sĩ của mình có nhiều người cũng là thành viên cũ của Bắc phủ binh như tướng sĩ của Lưu Nghị, thậm chí còn là anh em họ hàng, bèn lệnh cho bộ hạ vừa đánh vừa nói chuyện; quân Kinh Châu biết Lưu Dụ thật sự sắp đến, dần dần ly tán.

Đến canh một, quân Kinh Châu trước Thính sự đường tan rã, dũng tướng Triệu Thái bị chém chết, nên lui về các lầu gác đông – tây, đóng chặt cửa kháng cự. Trấn Ác sợ đêm tối đánh lầm quân mình, bèn lui ra thành ngoài, vây quanh thành trong, mở ra mặt nam làm đường lui cho kẻ địch. Lưu Nghị sợ có mai phục, giữa canh ba đem 300 thân tín chạy ra cửa bắc. Nghị đột phá quân của Trấn Ác không được, quay sang đột phá quân của Khoái Ân, nhờ bọn Khoái Ân đã mệt mỏi cả ngày, nên vượt qua được. Nghị theo cửa đông của thành ngoài chạy ra, sau đó treo cổ ở chùa Ngưu Mục.

Trận này Trấn Ác phải chịu 5 mũi tên, trúng cả vào tay cầm sóc, đầu mũi tên vẫn cắm trên tay. Giang Lăng bình định xong được 20 ngày thì đại quân của Lưu Dụ mới đến.

Trấn áp Tư Mã Hưu Chi

Trấn Ác được làm Thự trung binh, ra nhận chức An viễn hộ quân, Vũ Lăng nội sử. Nhờ công dẹp Lưu Nghị, được phong Hán Thọ huyện tử, thực ấp 500 hộ. Thủ lĩnh người Man là Hướng Bác Để Căn chiếm cứ Nguyễn Đầu, Trấn Ác đánh dẹp ông ta. Khi mới lên đường, Trấn Ác thông báo với Kinh Châu thư sử Tư Mã Hưu Chi, yêu cầu ông ta điều quân tiếp ứng, nên Hưu Chi sai bộ tướng Chu Tương đi giúp. Gặp lúc Lưu Dụ trấn áp Hưu Chi, Trấn Ác quyết định tấn công Chu Tương để tránh 2 đầu thụ địch, trong đêm xuôi dòng, nhờ nước sông chảy gấp, nhanh chóng đi được vài trăm dặm, thẳng đến Đô Úy Trì. Sau khi đến nơi, Trấn Ác thả lồng tre chèn đá, làm tắc dòng nước. Quân của Chu Tương đến, Trấn Ác ở gần bờ đánh ông ta, chém đầu Tương, giết hơn ngàn người.

Trấn Ác tính tham, phá Tương rồi, nhân đó dừng quân cướp bóc các tộc người Man, không kịp tham gia trấn áp Hưu Chi. Khi Trấn Ác đến Giang Lăng thì Hưu Chi đã thua chạy, Lưu Dụ giận, không gặp ông. Trấn Ác cười nói: “Chỉ cần ta được gặp ngài ấy, thì không lo nữa!” Sau đó Lưu Dụ lên thành gọi Trấn Ác, ông nhờ giỏi biện bạch, khéo ăn nói, tùy cơ ứng đối, nên Dụ tan cơn giận. Hưu Chi cùng Lỗ Tông Chi chạy đi Tương Dương, Trấn Ác thống lãnh bọn Khoái Ân theo đường thủy đuổi theo; bọn Hưu Chi chạy sang Hậu Tần, Trấn Ác đuổi nà, đến biên cảnh mới về. Được trừ chức Du kích tướng quân.

Bình diệt Hậu Tần

Chiếm Lạc Dương

Năm Nghĩa Hi thứ 12 (416), Lưu Dụ sắp chinh phạt Hậu Tần, chuyển Trấn Ác làm Tư nghị tham quân, Hành Long tương tướng quân, lĩnh tiền phong. Sắp lên đường, Tiền tướng quân Lưu Mục Chi thấy Trấn Ác ở Tích Nỗ đường, nói với ông rằng: “Xưa Tấn Văn vương gởi gắm việc phạt Thục cho Đặng Ngải, nay cũng gởi gắm cho khanh việc lấy Quan Trung, hãy gắng gỏi lập đại công, chớ phụ sự tín nhiệm này.” Trấn Ác nói: “Không hạ được Hàm Dương, thề không vượt sông trở về!”

Trấn Ác vào đất Tần, trận nào cũng thắng, kẻ địch ở Thiệu Lăng, Hứa Xương không đánh mà tan chạy; phá Hổ Lao cùng Bách Cốc ổ, chém tướng Tần là Triệu Huyền. Quân Tấn đến Lạc Dương, Trần Lưu công Diêu Quang của Tần đầu hàng. Tiến đến Thằng Trì, thăm viếng ân nhân Lý Phương, bái kiến mẹ ông ta, đãi ngộ rất hậu, lập tức cho Phương thụ chức Thằng Trì lệnh.

Chiếm Đồng Quan

Trấn Ác sai tư mã Mao Đức Tổ đánh Hoằng Nông thái thú Doãn Nhã của Hậu Tần ở Lễ Thành, bắt sống ông ta; cho Nhã làm Hành Hoằng Nông thái thú. Quân Tấn theo đường lớn thẳng tiến, chiếm cứ Đồng Quan. Đại tướng quân Diêu Thiệu của Tần soái đại quân giữ nơi hiểm yếu, đào hào sâu, dựng lũy cao kháng cự. Ban đầu Lưu Dụ có hẹn với Trấn Ác, chiếm được Lạc Dương thì đợi đại quân đến, không thể khinh suất tiến quân; nay Trấn Ác liều lĩnh thâm nhập, giằng co với địch lâu ngày, lo sợ việc vận lương không cung ứng đủ, nên cầu cứu Lưu Dụ, xin thêm lương thực. Khi ấy Lưu Dụ đang ở men Hoàng Hà, bị quân Bắc Ngụy quấy nhiễu nên chưa thể lên bờ, không có cách gì viện trợ. Trấn Ác bèn đích thân đến Hoằng Nông, thỉnh cầu nhân dân giúp đỡ, được họ vui lòng quyên hiến lương thực, quân đội không lo thiếu ăn nữa!

Không lâu sau Diêu Thiệu bệnh mất, Diêu Tán thay thế, nghe tin Lưu Dụ tiến quân đến Hồ Thành, bèn lui chạy. Đại quân đến Đồng Quan hội họp với Trấn Ác, ông kiến nghị cho mình soái thủy quân từ Hoàng Hà vào sông Vị. Trấn bắc tướng quân Diêu Cường của Tần đồn trú thượng dụ sông Kinh, Trấn Ác sai Mao Đức Tổ đánh phá ông ta, thẳng tiến đến Vị Kiều. Thủy quân của Trấn Ác dùng hạm nhỏ Mông xung, lính chèo thuyền đều ngồi bên trong hạm, người phương bắc chưa từng gặp loại thuyền không thấy thủy thủ, cũng không thấy mái chèo, chẳng ai không kinh hãi, cho đấy là thần.

Chiếm Trường An

Trấn Ác đã đến, lệnh cho tướng sĩ dùng bữa, rồi bỏ thuyền lên bờ. Sông Vị chảy gấp, trong chớp mắt đã cuốn thuyền hạm đi mất. Khi ấy quân Tần đồn trú dưới thành Trường An có vài vạn người. Trấn Ác phủ dụ sĩ tốt, tự mình đi đầu; quân Tấn cũng thấy không còn đường lui, ai cũng hăng hái tranh đi trước. Quân Tần nhanh chóng tan chạy, Trấn Ác chiếm được Trường An. Tần đế Diêu Hoằng chạy thoát thân, hôm sau dắt vợ con ra hàng. Trong thành người Hán và dị tộc có hơn 6 vạn hộ, Trấn Ác vỗ về quan dân, hiệu lệnh nghiêm túc, khiến mọi người vững lòng.

Trấn Ác ở Bá Thượng nghênh đón Lưu Dụ, ông ta úy lạo rằng: “Làm nên bá nghiệp của ta, thật là khanh đấy!” Trấn Ác bái tạ rằng: “Đây là uy của minh công, sức của chư tướng, Trán Ác có công gì đâu!” Lưu Dụ cười nói: “Khanh muốn học theo Phùng Dị à!” Khi ấy Quan Trung được mùa, kho lẫm đầy chật, Trấn Ác thỏa ý thu vén, trai gái ngọc lụa, nhiều không đếm xuể; Lưu Dụ cho rằng ông có công lớn, nên không hỏi. Trấn Ác được tiến hiệu Chinh lỗ tướng quân. Bấy giờ có người tố cáo Trấn Ác giấu xe Liễn của Diêu Hoằng, ắt có chí khác. Lưu Dụ bí mật sai người tìm kiếm chiếc xe ấy, thì biết Trấn Ác lấy hết vàng bạc, bỏ xe nơi cạnh tường. Nghe vậy thì Lưu Dụ mới yên lòng.

Cái chết

Lưu Dụ để lại con trai thứ 2 là Quế Dương công Lưu Nghĩa Chân làm An tây tướng quân, Ung, Tần 2 châu thứ sử, trấn thủ Trường An. Trấn Ác được lấy bản hiệu, lĩnh chức An tây tư mã, Phùng Dực thái thủ, nhận trách nhiệm phòng vệ. Khi ấy Hạ vương Hách Liên Bột Bột cường thịnh, trước đây nhiều lần quấy nhiễu biên thùy phía bắc và đánh bại quân đội Hậu Tần. Khi Lưu Dụ trở về Đông Tấn, Bột Bột bèn mang quân xâm nhập. Nghĩa Chân sai Trung binh tham quân Thẩm Điền Tử kháng cự. Điền Tử thấy quân Hạ thế mạnh, bèn đồn trú Lưu Hồi Bảo, sai sứ về báo với Trấn Ác. Trước mặt sứ giả, Trấn Ác nói với Trưởng sử Vương Tu: “Ông ấy đem đứa trẻ 10 tuổi giao cho bọn ta, cần phải đồng tâm tận lực, mà kìm quân không tiến, giặc giã làm sao bình định đây!?” Sứ giả trở về thuật lại lời ấy, Điền Tử vốn ganh tị công lao của Trấn Ác (xem bài Thẩm Điền Tử), đến nay lại càng căm giận.

Trấn Ác cùng bọn Điền Tử, Phó Hoằng Chi cùng đem quân ra Bắc Địa kháng cự quân Hạ. Trong quân Tấn có lời đồn Trấn Ác muốn giết sạch người miền nam, chiếm cứ Quan Trung; bọn Điền Tử nhân đó giả truyền mệnh lệnh của Lưu Dụ, giết chết Trấn Ác. Điền Tử còn vào doanh trại của Trấn Ác, giết chết anh trai của ông là Cơ, em trai là Hồng, Tuân, Uyên, em họ là Chiêu, Lãng, Hoằng, cả thảy 7 người; chỉ có 1 em trai là Khang may mắn thoát chết. Đó là ngày 15/1 ÂL năm Nghĩa Hi thứ 14 (7/3/418).

Trấn Ác hưởng thọ 46 tuổi.

Hậu sự

Lưu Dụ dâng biểu nói Điền Tử phát rồ nên sát hại trung huân, truy tặng Trấn Ác làm Tả tướng quân, Thanh Châu thứ sử. Lưu Dụ lên ngôi, là Lưu Tống Vũ đế, Trấn Ác được truy phong Long Dương huyện hầu, thực ấp 1500 hộ, thụy là Tráng hầu. Về sau được thờ trong miếu của Vũ đế.

Con là Linh Phúc được kế tự, làm đến Hữu quân tư nghị tham quân của Nam Bình vương Lưu Thước. Con Linh Phúc là Thuật Tổ được kế tự. Con Thuật Tổ là Duệ được kế tự. Nhà Nam Tề thay ngôi nhà Lưu Tống, hầu quốc bị cắt bỏ.

Năm Kiến Trung thứ 3 (782) nhà Đường, Lễ nghi sứ Nhan Chân Khanh kiến nghị truy phong 64 danh tướng đời xưa, đặt miếu thờ phụng; bao gồm Tống Chinh lỗ tướng quân Vương Trấn Ác. Năm Tuyên Hòa thứ 5 (1123), nhà Bắc Tống theo lệ nhà Đường, truy phong 72 danh tướng; Trấn Ác là một trong số này. Cũng vào đời Bắc Tống, Trấn Ác được liệt vào 100 danh tướng trong tác phẩm Thập thất sử bách tướng của Trương Dự.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Trấn Ác** (chữ Hán: 王镇恶, 11 tháng 6, 373 – 7 tháng 3, 418), người huyện Kịch, quận Bắc Hải, tướng lĩnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Mặt trận Srem** (, ) là tuyến phòng thủ vững chắc của Wehrmacht và Quân lực Croatia nằm tại Srem và Đông Slavonia trong Thế chiến thứ hai từ 23 tháng 10 năm 1944 đến
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Khánh Dư** (chữ Hán: 陳慶餘, 13 tháng 3, 1240 - 23 tháng 4, 1340), hiệu là **Nhân Huệ vương** (仁惠王), là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần.
**Trần Dụ Tông** (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm
**Nhà Trần** () (557-589), đôi khi gọi là **Nam triều Trần** (南朝陳), là triều đại thứ tư và cuối cùng trong số các triều đại thuộc Nam triều thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc,
**Trận Züllichau**, còn gọi là **trận Kay** hoặc là **trận Palzig**, diễn ra vào ngày 23 tháng 7 năm 1759 tại Brandenburg (Phổ) trong Chiến tranh Bảy Năm, giữa một bộ phận quân đội Phổ
**Vương Tu** (chữ Hán: 王修, ? - 418), tên tự là **Thúc Trì**, người Bá Thành, Kinh Triệu , tướng lĩnh nhà Đông Tấn. Ông là một trong 8 viên đại tướng bị bắt hoặc
**Trận Ypres lần thứ nhất**, hay còn gọi là trận Flanders, diễn ra tại Ypres, Bỉ giữa đế quốc Đức và liên quân Anh-Pháp từ ngày 19 tháng 10 đến 22 tháng 11 1914. Trận
**Trần Khát Chân** (chữ Hán: 陳渴真; 1370–1399) là một tướng lĩnh Đại Việt cuối thời Trần. Ông nổi bật với việc chỉ huy quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành,
**Vương quốc Algarve** (tiếng Bồ Đào Nha: _Reino do Algarve_, từ tiếng tiếng Ả Rập _Al-Gharb al-Andalus_), sau gọi là **Vương quốc Algarves** (tiếng Bồ Đào Nha: _Reino dos Algarves_), là một vương quốc được
**Trận Denain** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, diễn ra vào ngày 24 tháng 7 năm 1712 giữa quân đội Pháp và quân Đồng minh Áo-Hà Lan. Kết
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Trận Vukovar** là một cuộc vây hãm kéo dài 87 ngày từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1991 ở thành phố Vukovar, miền đông Croatia, áp đặt bởi Quân đội nhân dân Nam Tư
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Trận Manila** diễn ra từ ngày 3 tháng 2 đến 3 tháng 3 năm 1945, giữa quân đội Hoa Kỳ, Thịnh vượng chung Philippines và quân đội Nhật Bản là một phần của Chiến dịch
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đồng Minh đã phạm phải tội ác chiến tranh đã được kiểm chứng và vi phạm luật pháp chiến tranh chống lại dân thường hoặc quân nhân
nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ **Hòa Thạc Túc Thân vương** (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Ashoka Đại Đế** (br. **𑀅𑀲𑁄𑀓** sa. _aśoka_, pi. _asoka_, zh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. _maurya_, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị
**Trận Okinawa** (tiếng Anh: Battle of Okinawa, tiếng Nhật: 沖縄戦, Okinawa-sen), hay còn gọi là **chiến dịch Iceberg** (**chiến dịch Băng Sơn**) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Trận Mariupol** hay **Cuộc vây hãm Mariupol** là một cuộc giao tranh quân sự đang diễn ra giữa Nga và Ukraina, bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, trong chiến dịch quân sự
**Trận nước Bỉ** hay **Chiến dịch nước Bỉ** là một phần trong trận chiến nước Pháp, cuộc tấn công lớn của Đức Quốc xã tại Tây Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**Trận Königgrätz**, còn gọi là **Trận Sadowa** hay **Trận Sadová** theo tiếng Tiệp Khắc, là trận đánh then chốt của cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, và chấm
**Trận Kolubara** (Tiếng Đức: Schlacht an der Kolubara, Tiếng Serbia: Kolubarska bitka, Колубарска битка) là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Áo-Hung và Serbia vào tháng 11 và tháng 12 năm 1914 tại mặt
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
thumb|right|"Tart cards" trong các hòm điện thoại quảng cáo dịch vụ của những cô gái gọi điện ở Luân Đôn (một thực hành bất hợp pháp, nhưng từng phổ biến). thumbnail|Một cửa hàng quảng cáo
:''Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva **Trận Borodino** (, _Borodinskoe srazhenie_; phiên âm: **Bô-rô-đi-nô**); hoặc còn gọi là **Trận Sông Moskva** () giữa quân đội
**Trận Singapore** hay **chiến dịch Singapore** là trận đánh diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Đế quốc Nhật Bản và khối Liên hiệp Anh từ ngày 8 tháng 2 đến ngày
**Trận Kolín** diễn ra vào ngày 18 tháng 6 năm 1757 trên chiến trường Trung Âu của cuộc Chiến tranh Bảy năm, giữa 35.000 quân Phổ do vua Friedrich Đại đế chỉ huy và hơn
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
**Trận Hà Nội đông xuân 1946-47** là sự kiện khởi động Chiến tranh Đông Dương giữa các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) và tập đoàn quân viễn chinh Pháp từ
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Tề Ai vương** (chữ Hán: 齐哀王, ?-179 TCN, trị vì 189 TCN-179 TCN), tên thật là **Lưu Tương** (刘襄), là vị vua thứ ba của tiểu quốc Tề, chư hầu của nhà Hán trong lịch
**Mặt trận giải phóng động vật** (tiếng Anh: **Animal Liberation Front**) viết tắt là **ALF**, là một nhóm hoạt động quốc tế không người lãnh đạo của phong trào giải phóng động vật, tham gia
**Trận Bạch Giang**, cũng được gọi là **Trận Baekgang** hay **Trận Hakusukinoe**, xảy ra ngày 28 tháng 8 năm 663 tại Sông Bạch Giang (nay Sông Geum, Hàn Quốc). Trận này liên quan liên minh
**Trận Grunwald**, **Trận Žalgiris** hay **Trận đầu Tannenberg** diễn ra ngày 15 tháng 7 năm 1410 trong Chiến tranh Ba Lan–Litva–Teuton. Liên minh của Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Lietuva, do Vua
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Trận Crete** (; ) là một trận đánh diễn ra tại đảo Crete của Hy Lạp giữa quân đội Đức Quốc xã và quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và