Trận Grunwald, Trận Žalgiris hay Trận đầu Tannenberg diễn ra ngày 15 tháng 7 năm 1410 trong Chiến tranh Ba Lan–Litva–Teuton. Liên minh của Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Lietuva, do Vua Władysław II Jagiełło (Jogaila) và Công tước Vytautas trị vì, đã quyết định đánh bại các Hiệp sĩ Teuton của Đức-Phổ do Trưởng sư Ulrich von Jungingen đứng đầu. Phần lớn chỉ huy của các Hiệp sĩ Teuton đều bị giết hoặc bị bắt làm tù binh. Mặc dù thua trận nhưng các Hiệp sĩ Teuton vẫn giữ được pháo đài của họ ở Marienburg (Malbork) và chịu rất ít tổn thất về lãnh thổ trong Hoà ước Thorn (1411) (Toruń), cùng với việc tiếp tục tranh chấp lãnh thổ khác cho đến khi có Hoà ước Melno năm 1422. Tuy vậy, các hiệp sĩ không bao giờ có thể phục hồi quyền lực cũ của mình được nữa, gánh nặng tài chính của việc bồi thường chiến tranh đã gây ra các mâu thuẫn nội bộ và suy thoái kinh tế trên những vùng đất mà họ kiểm soát. Trận chiến làm dịch chuyển cán cân quyền lực ở Trung và Đông Âu, và đánh dấu sự trỗi dậy của liên minh Ba Lan - Litva như một lực lượng chính trị và quân sự thống trị trong khu vực. Trận chiến Grunwald được dùng như là một nguồn cảm hứng về truyền thuyết lãng mạn và tự hào dân tộc, trở thành một biểu tượng cao hơn của cuộc đấu tranh chống những kẻ xâm lược ngoại quốc. Suốt thế kỷ 20, trận chiến được sử dụng trong các chiến dịch tuyên truyền của Đức quốc xã và Xô Viết. Chỉ trong những thập kỷ gần đây, các nhà sử học đã có những bất đồng, chuyển hướng sang các đánh giá học thuật về trận chiến, đối chiếu các bài thường thuật khi thấy có sự khác nhau giữa các quốc gia. Trận chiến được coi là một chiến thắng của Ba Lan-Litva đối với Hiệp sĩ Teuton.
Tên gọi và nguồn tài liệu
Tên gọi
thumb|left|upright=0.6|Nguồn tài liệu quan trọng nhất về trận chiến là Cronica conflictus...
Trận chiến diễn ra trên lãnh thổ của Nhà nước Hiệp sĩ Teuton, trên đồng bằng nằm giữa ba làng: Grünfelde (Grunwald) về phía Tây, Tannenberg (Stębark) phía đông bắc và Ludwigsdorf (Łodwigowo, Ludwikowice) về phía nam. Władysław II Jagiełło gọi nơi đó bằng tiếng Latinh là in loco conflictus nostri, quem cum Cruciferis de Prusia habuimus, dicto Grunenvelt. Sau này những người chép biên niên sử Ba Lan diễn giải từ Grunenvelt thành Grünwald, nghĩa là"rừng xanh"trong tiếng Đức. Phía Litva cũng theo đó và dịch tên gọi thành Žalgiris. Người Đức đặt tên cho trận chiến sau tên Tannenberg ("đồi thông"trong tiếng Đức). Do đó có ba tên gọi phổ biến để nói về trận chiến: , , . Tên gọi của trận chiến trong ngôn ngữ của các dân tộc có liên quan khác, gồm có , , , , .
Các nguồn tài liệu
Có rất nhiều nguồn hiện đại và đáng tin về trận chiến, và phần lớn từ nguồn tài liệu tiếng Ba Lan. Nguồn tài liệu quan trọng và đáng tin cậy nhất là Cronica conflictus Wladislai regis Poloniae cum Cruciferis anno Christi 1410, được viết trong cùng năm với trận chiến bởi một nhân chứng. Trong khi bản chính Cronica conflictus đã không còn tồn tại thì một bản tóm tắt từ thế kỷ 16 vẫn còn được bảo tồn. Một tài liệu quan trọng khác là Historiae Polonicae của nhà sử học Ba Lan Jan Długosz (1415–1480). Banderia Prutenorum là bản viết tay giữa thế kỷ 15 với các hình ảnh và mô tả bằng tiếng La-tinh về những lá cờ của các hiệp sĩ Teuton bị bắt trong trận chiến và được treo ở nhà thờ trong Lâu đài Wawel và Nhà thờ Vilnius. Các nguồn tiếng Ba Lan khác gồm có hai lá thư do Władysław II Jagiełło viết gửi vợ là Anne nhà Cilli và gửi Giám mục Poznan là Wojciech Jastrzębiec, và các lá thư của Jastrzębiec gửi những người Ba Lan ở Tòa thánh.
Diễn biến của trận đánh
thumb|Bản đồ các di chuyển quân sự trong chiến dịch Grunwald
Hành quân vào Phổ
Giai đoạn đầu tiên của chiến dịch Grunwald là tập hợp toàn bộ quân Ba Lan-Litva tại Czerwinsk, một điểm hẹn được chỉ định cách 80 km (50 dặm) từ phía biên giới Phổ - nơi quân đội chung của hai bên vượt sông Vistula bằng cầu phao. Việc điều quân này đòi hỏi sự phối hợp chính xác và tập trung cao độ giữa các lực lượng đa sắc tộc đã hoàn thành trong khoảng một tuần, từ ngày 24 đến 30 tháng 6 năm 1410. Ngay khi Ulrich von Jungingen biết được ý định của phía Ba Lan–Litva, ông ấy đã để lại 3.000 quân tại Schwetz (Świecie) dưới trướng Heinrich von Plauen và điều lực lượng chính nhằm tổ chức một tuyến phòng thủ trên Sông Drewenz (Drwęca) gần Kauernik (Kurzętnik). Ngày 11 tháng 7, sau khi họp với hội đồng chiến tranh gồm tám thành viên của mình, Władysław II Jagiełło đã quyết định không vượt sông tại một vị trí phòng thủ mạnh như vậy. Thay vào đó, quân đội sẽ vượt sông bằng cách chuyển về hướng đông, phía nguồn, nơi không có con sông lớn nào chia tách quân đội của ông khỏi Marienburg. Hành quân được tiếp tục tiến về phía đông theo hướng Soldau (Działdowo), mặc dù không đưa ra dự định chiếm thị trấn.[51] Quân đội Teuton đi theo phía bắc Sông Drewenz, vượt sông ở gần Löbau (Lubawa) và sau đó di chuyển về phía đông song song với quân đội Ba Lan - Litva. Theo tuyên truyền của Hội thì sau đó sẽ cướp phá làng Gilgenburg (Dąbrówno). Sau này, trong những lời chứng tự phục vụ của những người sống sót trước Giáo hoàng, Hội xác nhận rằng Von Jungingen đã quá tức giận vì những tội ác bị cáo buộc rằng ông đã thề sẽ đánh bại quân xâm lược trong trận chiến.
Chuẩn bị cho trận đánh
thumb|left|Các hiệp sĩ Teuton trình các [[Thanh kiếm Grunwald lên Vua Władysław II Jagiełło (tranh của Wojciech Kossak)]]
Sáng sớm ngày 15 tháng 7 năm 1410, cả hai đội quân gặp nhau tại một khu vực khoảng ở giữa làng Grunwald, Tannenberg (Stębark) và Ludwigsdorf (Łodwigowo). Các đội quân tạo thành các tuyến đối kháng dọc theo trục đông bắc – tây nam. Quân đội Ba Lan – Litva được bố trí phía trước và phía đông của Ludwigsdorf và Tannenberg. Lực lượng của các hiệp sĩ Tetuton tập trung kỵ binh hạng nặng ưu tú của họ, do Trưởng sư Frederic von Wallenrode chỉ huy để chống lại quân Litva. Một nhà biên niên sử cho rằng họ đã đào các hố để quân tấn công sẽ bị rơi vào đó. Họ cũng cố gắng sử dụng pháo binh dã chiến, nhưng một cơn mưa nhẹ đã làm ẩm bột của họ và chỉ có hai phát súng được khai hỏa. Được biết đến với tên gọi"Những thanh kiếm Grunwald", chúng trở thành các biểu tượng quốc gia của Ba Lan.
Mở màn trận đánh: Quân Litva tấn công và rút lui
File:Battle of Grunwald map 2 English.jpg|Hướng lui quân của kỵ binh nhẹ Litva
File:Battle of Grunwald map 3 English.jpg|Hướng tấn công của cánh phải quân Ba Lan – Litva
File:Battle of Grunwald map 4 English.jpg|Hướng đột phá của kỵ binh hạng nặng Ba Lan
Vytautas, được hỗ trợ bởi các cờ hiệu Ba Lan, đã bắt đầu một cuộc tấn công phía sườn trái của lực lượng Teuton. Długosz đã không đề cập đến phía Litva – những người sau đó quay trở lại chiến trường, vì vậy đã mô tả trận chiến như là chiến thắng chỉ của phía Ba Lan. Một cuộc rút lui giả mạo đã được dùng trong Trận sông Vorskla (1399), khi quân đội Litva chịu một thất bại nặng nề và Vytautas may mắn thoát chết. Lý thuyết này được chấp nhận rộng rãi hơn sau khi được phát hiện trong một lá thư tiếng Đức và công bố năm 1963 bởi nhà sử học người Thụy Điển Sven Ekdahl. Được viết sau trận đánh vài năm, lá thư cảnh báo tân Trưởng sư để ý đến việc lui quân giả mạo như đã được dùng trong trận Đại chiến.
Tiếp tục trận đánh: cuộc chiến Ba Lan – Teuton
thumb|Các cờ hiệu của [[Vương quốc Ba Lan (1385–1569)|Vương quốc Ba Lan và Vùng Lwó trong suốt trận đánh]]
thumb|[[Lipka Tatars|Quân Tartar Hồi giáo chiến đấu với một Hiệp sĩ Teuton (chi tiết từ tranh của Wojciech Kossak)]]
Trong khi quân Litva đang rút lui, giao tranh ác liệt vẫn nổ ra giữa lực lượng Ba Lan và Teuton. Dưới sự chỉ huy của Chỉ huy trưởng (Grand Komtur) Kuno von Lichtenstein, lực lượng Hiệp sĩ Teuton tập trung đánh vào sườn phải của quân Ba Lan. Sáu đạo quân của von Walenrode đã không đuổi theo quân Litva đang rút lui mà thay vào đó là tấn công vào sườn phía phải. Tuy nhiên, cờ hiệu được sớm lấy lại và giao chiến lại tiếp tục. Władysław II Jagiełło triển khai tiềm lực của mình — hàng thứ hai của quân đội. và Władysław II Jagiełło đã dàn lớp quân dự phòng của mình – hàng thứ ba của quân đội. Thư ký của Władysław là Zbigniew Oleśnicki đã cứu được vua nên đã giành được ưu ái của hoàng gia và trở thành một trong những người có ảnh hưởng nhất ở Ba Lan.
Kết thúc trận đánh: Các hiệp sĩ Teuton bị đánh bại
Vào thời điểm đó, những người Litva được tổ chức lại và quay trở lại tấn công von Jungingen từ phía sau. trong khi Długosz lại nêu rằng Mszczuj of Skrzynno là kẻ giết người. Bị bao vây và không có lãnh đạo, các Hiệp sĩ Teuton bắt đầu rút lui. Một phần các đạo quân của họ đã rút lui về phía lán trại. Động thái này phản tác dụng khi những người hỗ trợ ở trại quay lưng lại với chủ của họ và tham gia vào cuộc săn lùng. Trận đánh kéo dài trong khoảng mười tiếng.
Các Hiệp sĩ Teuton quy kết cho việc thất bại một phần là do tội phản quốc của Nikolaus von Renys (Mikołaj of Ryńsk), chỉ huy của cờ hiệu Culm (Chełmno), và ông ấy đã bị chém đầu mà không cần xét xử. Truyền thuyết rằng các Hiệp sĩ bị"đâm sau lưng"đã lặp lại trong huyền thoại sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất và việc chép sử về trận chiến trước khi bị Đức chiếm đóng cho đến năm 1945.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Grunwald**, **Trận Žalgiris** hay **Trận đầu Tannenberg** diễn ra ngày 15 tháng 7 năm 1410 trong Chiến tranh Ba Lan–Litva–Teuton. Liên minh của Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Lietuva, do Vua
**_Trận Grunwald_** () là một tác phẩm hội họa của họa sĩ nổi tiếng người Ba Lan Jan Matejko. Bức tranh miêu tả lại trận chiến Grunwald giữa quân đội của các Hiệp sĩ Teuton
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Trận Tannenberg** (Tiếng Đức:Schlacht bei Tannenberg, Tiếng Nga:Битва при Танненберге) là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Đức tại Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
**Tượng đài Grunwald** (Tiếng Ba Lan: _Pomnik Grunwaldzki_) là một tượng người cưỡi ngựa của Vua Ba Lan Władysław II Jagiełło (1352–1434) đặt ở Quảng trường Matejko ở Phố cổ Kraków và được xây dựng
**Trận Lenino** diễn ra trên lãnh thổ của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 10 năm 1943 là một sự phát triển sau Chiến dịch
**Jogaila**, sau này là **Władysław II Jagiełło** () (sinh khoảng năm 1352/1362 - mất ngày 1 tháng 6 năm 1434) là Đại vương công Lietuva (1377-1434) và sau đó là vua Ba Lan (1386-1434), lần
**Hiệp sĩ Thập tự** hay **Hiệp sĩ Thánh chiến** (tiếng Ba Lan: Krzyżacy) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử năm 1900 được viết bởi nhà văn theo chủ nghĩa thực chứng Ba Lan và
**Antoni Wiwulski** () (sinh ngày 20 tháng 2 năm 1877 - mất ngày 10 tháng 1 năm 1919) là một kiến trúc sư và nhà điêu khắc người Ba Lan-Litva ## Tiểu sử Antoni Wiwulski
**Jan Žižka của Trocnov và Kalicha** (khoảng 1360 - 11 tháng 10 năm 1424) (; ; ) là một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Hussite tại Vương quốc Bohém (nay thuộc Cộng hòa Séc).
nhỏ| [https://polona.pl/item/bogurodzica,Njg5MDU1MDE/0/#info:metadata Bản thảo Bogurodzica (1407)] **Bogurodzica** (; Mẹ Thiên Chúa ") là quốc ca lâu đời nhất của Ba Lan. Bài hát sáng tác ở khoảng giữa thế kỷ thứ 10 và 13. Tác
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
phải|thumb|Giả vờ rút lui. **Giả vờ rút lui** là một chiến thuật quân sự, theo đó một lực lượng quân sự giả vờ rút lui sau một trận giao chiến để thu hút kẻ thù
Đế kỳ [[Nhà Hohenzollern|Hohenzollern.]] **Đế quốc Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Reich_), hay **Đế chế thứ hai** hay **Đệ nhị Đế chế** () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau
**Slavkov u Brna** (tiếng Séc phát âm: [slafkof u br̩na], tức là _Slavkov Brno_, từng được biết đến trong lịch sử với tên gọi **Austerlitz** trong tiếng Đức) là một thị trấn nằm ở phía
**Belarus** (phiên âm: "Bê-la-rút", ; , tr. **', , tiếng Nga: Беларусь, Белоруссия, _Belarus_, _Belorussiya_,) tên chính thức là **Cộng hòa Belarus''' (tiếng Belarus: Рэспубліка Беларусь, tiếng Nga: Республика Беларусь), là quốc gia không giáp
**Zawisza Czarny** ( hay **Zawisza Đen**; năm 1379 – ngày 12 tháng 6 năm 1428), Phù hiệu áo giáp Sulima, là một Hiệp sĩ và Giới quý tộc Ba Lan phục vụ như một chỉ
**Lâu đài Ryn** là một lâu đài thế kỷ thứ mười bốn nằm giữa hồ Ryn và Ołów, cạnh Quảng trường Tự do (_Plac Wolności_) ở Ryn, Ba Lan. ## Lịch sử Lâu đài Ryn
**Lâu đài Koło** - một lâu đài theo kiến trúc Gô-tích, mà theo Jan Długosz đã được Casimir III Đại đế xây dựng trước năm 1362 (khi Koło nhận được đặc quyền thị trấn). Lâu
phải|nhỏ|The Rota được trình diễn ở tháp chuông Gdańsk **_Rota_** ("Lời thề") là một bài thơ Ba Lan đầu thế kỷ 20, cũng như một bài quốc ca, từng được đề xuất là quốc ca
**Bảo tàng Tác phẩm của Władysław Wołkowski ở Olkusz** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Twórczości Władysława Wołkowskiego w Olkuszu_) là một bảo tàng tọa lạc tại số 32 Phố Szpitalna, Olkusz, Ba Lan. Bảo tàng hoạt
phải|nhỏ|375x375px| Di tích lâu đài Bodzentyn. **Lâu đài Bodzentyn** () là một lâu đài đổ nát ở Bodzentyn, Ba Lan. Nó được xây dựng vào nửa sau của thế kỷ XIV. ## Lịch sử trái|nhỏ|250x250px
**Bảo tàng Vùng Nidzica ở Nidzica** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Ziemi Nidzickiej w Nidzicy_) là một bảo tàng có trụ sở tại Nidzica, Ba Lan. Bảo tàng Vùng Nidzica là một đơn vị tổ chức
Đại lãnh địa Litva rộng lớn nhất vào đầu thế kỷ 15 dưới triều đại của [[Vytautas]] **Đại công quốc Lietuva** (, , , , ), còn gọi là **Đại công quốc Litva**, là một
**_Hiệp sĩ_** (tiếng Ba Lan: Krzyżacy) là bộ phim lịch sử của điện ảnh Ba Lan, do Aleksander Ford đạo diễn, dựa theo tiểu thuyết nổi tiếng của Henryk Sienkiewicz, công chiếu vào ngày 15
nhỏ|phải|Lâu đài Trakai **Lâu đài Trakai** hay **Lâu đài đảo Trakai** (_tiếng Litva_: _Trakų salos Pilis_) là một lâu đài nằm trên hòn đảo có tên là Trakai của Litva ở hồ Galvė. Lâu đài
**Quan hệ Ba Lan–Litva** là mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng, Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Litva. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này đã bắt đầu từ thế
**Địa khu Dobrzyń** (, ) là một vùng lịch sử, với thủ đô ở Dobrzyń nad Wisłą ở bắc trung bộ Ba Lan ở Đại Ba Lan, giữa Mazovia và Phổ. Nó tọa lạc ở
**Kopa** (, , Tiếng , , , ) là một đơn vị đo thời trung cổ được sử dụng ở Trung và Đông Âu, đặc biệt là trong thế kỷ 15-18 tại Đại công quốc
nhỏ|Thân cây sồi Jagiełło. **Sồi Jagiełło** là **cây sồi** được chú ý nhất trong các cây sồi rừng Białowieża. Cây bị đốn hạ vào ngày 2 tháng 11 năm 1974, lúc đó nó có chu
**Lâu đài Ostróda** - một lâu đài nằm trong khu vực của Huyện Ostróda, Warmian-Masurian Voivodeship; ở Ba Lan. ## Lịch sử Thành trì của những Hiệp sĩ Teutonic đầu tiên trong khu vực xuất
**Waksmund** là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Nowy Targ, thuộc quận Nowy Targ, Voivodeship của Ba Lan, ở miền nam Ba Lan. Nó nằm khoảng về phía đông của Nowy Targ
**Lâu đài Pieskowa Skała** (; Tiếng Ba Lan cho _Little Dog's Rock_), là một vách đá vôi trong thung lũng sông Prądnik, Ba Lan, nổi tiếng với lâu đài thời Phục hưng. Nó nằm trong
Thống tướng **Dwight David "Ike" Eisenhower** (phát âm: ; 14 tháng 10 năm 1890 – 28 tháng 3 năm 1969) là một vị Thống tướng Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ
**Aleksandr Vasilyevich Gorbatov** (; 21 tháng 3 năm 1891 - 7 tháng 12 năm 1973) là một tướng lĩnh Liên Xô. Ông từng phục vụ trong Quân đội Đế quốc Nga trong Thế chiến thứ
**Dòng Huynh đệ Nhà Teuton Thánh Mẫu tại Jerusalem** (tên chính thức tiếng Latinh: _Ordo domus Sanctæ Mariæ Theutonicorum Hierosolymitanorum_; tiếng Đức: _Orden der Brüder vom Deutschen Haus St. Mariens in Jerusalem_), thường gọi tắt
**Sân vận động thành phố ở Poznań** (, ), đôi khi được gọi là **Sân vận động phố Bułgarska** **(Sân vận động** **Phố Bulgaria)** là một Hiệp hội sân vận động bóng đá ở Poznań,
**Đài tưởng niệm Kỵ binh Ba Lan**, còn được gọi là **Đài tưởng niệm Kỵ binh Ba Lan thiên niên kỷ**, là một bức tượng nằm ở Vòng xoay Kỵ binh Ba Lan (Rondo Jazdy
**Ivan Ignatyevich Yakubovsky** (; 7 tháng 1 năm 1912 – 30 tháng 11 năm 1976) là một Nguyên soái Liên Xô, hai lần Anh hùng Liên Xô. Ông từng giữ chức Tổng Tư lệnh Liên
nhỏ|261x261px|Bìa sách Bằng Lửa và Gươm bản tiếng Anh **_Bằng Lửa và Gươm_** (Tiếng Ba Lan: Ogniem i mieczem; Tiếng Anh: With Fire and Sword) là một tiểu thuyết hư cấu lịch sử của nhà
nhỏ|250x250px| Ngôi mộ của người lính vô danh nhỏ|250x250px| Dòng chữ: _Tu lezy zołnierz Arlingtonki_ Dịch là.: "Đây là một người lính Ba Lan đã ngã xuống cho đất nước" nhỏ|250x250px| Một số viên đá
**Ivan Stepanovich Isakov** (, ; - 11 tháng 10 năm 1967) là một sĩ quan hải quân Liên Xô người Armenia, Tham mưu trưởng Hải quân, Thứ trưởng Hải quân Liên Xô, Đô đốc Hạm
**Vasily Iosifovich Stalin** (, ; họ gốc **Dzhugashvili**; , ; 1921-1962) là con trai út của Iosif Stalin với người vợ thứ hai, Nadezhda Alliluyeva. Khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô năm 1941,
**_Thế giới khi loài người biến mất_** (tiếng Anh: _The World Without Us_) là một tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu của nhà báo người Mỹ Alan Weisman. Quyển sách được xuất bản
**Józef Adam Zygmunt Cyrankiewicz** (; 23 tháng 4 năm 1911 - 20 tháng 1 năm 1989) là một nhà chính trị gia thuộc Đảng Xã hội Ba Lan và sau năm 1948 là chính trị
**Michał Rola-Żymierski** (; 4 tháng 9 năm 1890 - 15 tháng 10 năm 1989) là một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Ba Lan, chỉ huy quân đội cộng sản Ba Lan
**Pavel Ivanovich Batov** (; - 19 tháng 4 năm 1985) là một tướng lĩnh cao cấp của Hồng quân trong Thế chiến thứ hai, hai lần Anh hùng Liên Xô. Batov đã chiến đấu trong
**Vasily Ivanovich Kazakov** (tiếng Nga: Василий Иванович Казаков; 18 tháng 7 [6 tháng 7] 1898 - 25 tháng 5 năm 1968) là một Nguyên soái pháo binh của Liên Xô. ## Tiểu sử Vasily Ivanovich
**Stanislav Gilyarovich Poplavsky** (; 22 tháng 4 năm 1902 - 10 tháng 8 năm 1973), hay **Stanisław Popławski** trong tiếng Ba Lan, là một tướng lĩnh trong quân đội Liên Xô và Ba Lan. ##
Tập tin:Coat of arms of Poland-official.png **Quốc huy Ba Lan** có hình một con đại bàng trắng. Nó được cách điệu với mỏ và móng vàng, và đội một chiếc vương miện vàng, trên một