Quan hệ Ba Lan–Litva là mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng, Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Litva. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này đã bắt đầu từ thế kỷ 13 khi Đại công quốc Lietuva của Công tước Mindaugas có sự quan hệ với Vương quốc Ba Lan bấy giờ còn non yếu. Mối quan hệ dần được nâng cao lên, dẫn tới sự ra đời của Liên bang Ba Lan và Lietuva cho tới khi các lần Phân chia Ba Lan bởi Áo, Phổ và Nga khiến cho cả hai nước biến mất hơn 123 năm. Thế nhưng, sau khi tái độc lập, những mâu thuẫn chính trị và lãnh thổ, chủ yếu là vấn đề Vilnius, đã khiến cho Ba Lan và Litva bất đồng với nhau, dẫn đến Chiến tranh Ba Lan-Litva năm 1920 mà sau đó Ba Lan đánh chiếm Vilnius từ tay Litva. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này liên tục đi xuống và căng thẳng cho tới khi Ba Lan gửi tối hậu thư tới Litva năm 1938. Thế nhưng, cùng với việc Đức Quốc xã và Liên Xô xâm lược Ba Lan và Litva trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mối quan hệ đã dần ấm lên, tuy nhiên những căng thẳng ngầm vẫn tiếp diễn và hai bên tiếp tục đối đầu nhau. Sau 1945, Litva bị Nga đánh chiếm, trong khi Ba Lan trở thành nhà nước chư hầu của Nga, hai bên đã gần như không có sự giao thương gần gũi nào cho tới 1991, khi Liên Xô tan rã, thì hai nước mới tái lập quan hệ ngoại giao.
Lịch sử
Thời trung cổ
Cả hai đã có quan hệ từ thế kỷ 13, thế nhưng bấy giờ quan hệ đã bị giới hạn bởi một loạt các cuộc chiến tranh biên giới và các cuộc xâm chiếm lãnh thổ nhau của hai nhà nước này. Năm 1262, quân Litva tiến hành đột kích xâm chiếm vùng Mašovice, giết chết Hoàng tử kiêm Công tước vùng Masovia, Siemowit I. Chỉ đến những năm 1320, khi vua Ba Lan, Władysław I Piast, liên minh với Đại công tước Litva, Gediminas, mối quan hệ mới bắt đầu cải thiện và đi lên. Con gái Gediminas, Aldona của Litva, kết hôn với Władysław, để nâng cao quan hệ. Aldona sau này hạ sinh ra Casimir III Piast, một trong những quân vương lừng danh của Ba Lan. Năm 1385, trước sự đe dọa của các Hiệp sĩ Teuton, hai nước đã liên minh với nhau qua Liên minh Krewo, mở đường cho sự liên minh sau này giữa hai nước được củng cố, và nò càng trở nên vững chắc với chiến thắng của cả hai trong Trận Grunwald trước quân Teuton của người Đức.
Thế nhưng, cùng với việc Đại công quốc Lietuva ngày một suy yếu do các cuộc chiến tranh liên tục với Đại công quốc Moskva của người Nga, và việc người Nga chuyển hướng Tây tiến và bành trướng, cả hai dần liên minh chặt chẽ hơn, đỉnh điểm là Liên minh Lublin dẫn tới sự ra đời của Liên bang Ba Lan và Lietuva kéo dài từ 1569 cho tới khi bị xóa sổ bởi Nga, Phổ và Áo năm 1795. Trong khoảng thời điểm đó, Thịnh vượng chung đã đạt được nhiều thành tựu khích lệ, nổi bật là bản Hiến pháp mùng 5 tháng 3 năm 1791, bản Hiến pháp lâu đời thứ hai thế giới, chỉ sau bản Hiến pháp Hoa Kỳ.
phải|nhỏ|300x300px|Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva từ 1569
Trong khoảng thời kỳ bị phân chia, đã có nhiều cuộc nổi dậy của người dân Ba Lan chống lại ách cai trị bạo ngược của Nga, Áo và Phổ, trong đò phần lớn là nổi dậy chống Nga, song đều bị vùi dập thảm khốc. Tuy nhiên, người Litva lại né tránh việc này, và thậm chí được cho là đã gia nhập Quân đội Đế quốc Nga vùi dập các cuộc nổi dậy của người Ba Lan. Cùng lúc đó, ở Litva thuộc Nga, xuất hiện phong trào phục hưng Litva, tạo bản lề phục hưng tiếng Litva và văn hóa nước này.
Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
Năm 1919, sau khi tái độc lập, tướng Ba Lan Józef Klemens Piłsudski đã lên ý tưởng về một liên minh gọi là Międzymorze. Thế nhưng, nó lại bị coi là mối đe dọa với nhà nước Litva non trẻ vốn đang phải oằn mình chống lại các cuộc xâm lăng của lực lượng Nga Xô viết cùng lúc đó (bản thân Ba Lan cũng đang phải đánh nhau với Nga trong Chiến tranh Nga-Ba Lan). Cùng với sự bất đồng về vấn đề Vilnius và Sejny, hai nước đã xung đột nhau trong một cuộc chiến tranh mà sau này gây ra hậu quả ngoại giao nặng nề, đặc biệt là việc Ba Lan sáp nhập Vilnius năm 1922.
trái|nhỏ|Áp phích bài Ba Lan ở Litva...
phải|nhỏ|...và áp phích bài Litva ở Ba Lan.
phải|nhỏ|250x250px|Bản đồ cho thấy tranh chấp lãnh thổ giữa Ba Lan, Litva và Đức sau Thế chiến I.
Giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh chứng kiến những cuộc bài xích và phân biệt đối xử, cũng như đối đầu nhau giữa hai cả hai nước. Người thiểu số ở cả hai nước đều bị phân biệt đối xử và các chính sách của hai quốc gia này đều không khoan dung lẫn nhau. Ở Litva, người Ba Lan thường bị nghi ngờ và phải bị đồng hóa. Ở Ba Lan, sau 1935, chính phủ Ba Lan càng trở nên khắc nghiệt với người Litva và các trường học, cơ sở của người Litva đều bị đóng cửa. Hội Quốc Liên đều phải đứng ra can thiệp để giảm căng thẳng giữa hai nước, cho tới khi hai nước thiết lập ngoại giao năm 1938 theo một sự kiện ép buộc.
Thế chiến II
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ giữa hai nước lại tiếp tục bị đem ra tranh cãi, khi có nhiều chủ đề nhạy cảm diễn ra giữa hai nước, do xoay quanh các vấn đề như việc người Litva ủng hộ Liên Xô và Đức Quốc xã diệt chủng người Ba Lan, cũng như các hoạt động quân sự chống Litva, Đức và Nga của Armia Krajowa. Mặc dù từ những năm 2000, hai bên đã nỗ lực hàn gắn quan hệ, những vấn đề khác biệt giữa hai bên vẫn tồn tại rõ ràng và đầy dai dẳng.
Thời Liên Xô và Cộng sản Đông Âu
Sau năm 1945, cả hai đều bị Nga Xô viết xâm chiếm. Nền Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan bị Liên Xô thay thế bằng nhà nước Cộng sản chư hầu là Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, trong khi Litva bị Nga sáp nhập và đổi tên thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Litva. Một phần lớn lãnh thổ phía Đông của Ba Lan, bao gồm Vilnius, đã bị Nga lấy đi và sáp nhập vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia và Litva. Người Ba Lan ở Litva dần trở thành nạn nhân của chính sách Litva hóa và Nga hóa, trong khi người Litva ở Ba Lan dần suy giảm. Để làm cả hai nước yếu đi, Liên Xô đã làm giảm mối quan hệ lịch sử giữa hai quốc gia, và từ 1945-91, hai nước gần như không có tồn tại ngoại giao.
Ngày nay
nhỏ|200x200px|Lãnh đạo Ba Lan và Litva: [[Donald Tusk and Andrius Kubilius, Warsaw, 2009]]
Sau khi khối Đông Âu sụp đổ năm 1989 và 1991, Ba Lan và Litva tái thiết lập ngoại giao. Ba Lan là quốc gia đã ủng hộ mạnh mẽ Litva, và là một trong số những nước đầu tiên công nhận Litva độc lập (26 tháng 8 năm 1991). Thế nhưng, đầu những năm 1990, quan hệ giữa hai nước rơi vào đối đầu do vấn đề người thiểu số Ba Lan ở Litva, chủ nghĩa Ba Lan hóa ở Litva, tranh chấp lãnh thổ lịch sử, vấn đề năng lượng.
Thế nhưng, trước những căng thẳng đó, hai nước đã nỗ lực để hàn gắn và nâng cấp quan hệ ngoại giao. Ba Lan và Litva đã ký kết thỏa thuận Tình bạn và Hữu nghị năm 1992, được thông qua năm 1994, đồng thời cũng giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền và vấn đề người thiểu số ở hai nước. Cả hai đều là thành viên của Hiệp ước Schengen, Liên minh châu Âu và NATO. Cả hai đều có chung 103 km đường biên giới.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan hệ Ba Lan–Litva** là mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng, Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Litva. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này đã bắt đầu từ thế
**Quan hệ Ba Lan – Nga** (, ) là mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Ba Lan và Liên bang Nga. Hai quốc gia này có một mối quan hệ lâu dài song
Sau khi Cuộc tấn công Ba Lan được phát động bởi cả Liên Xô và Đức Quốc Xã, các chiến dịch khủng bố và đàn áp người Ba Lan của Liên Xô đã bắt đầu
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
thumb|Bản đồ các tranh chấp lãnh thổ của Litva vào năm 1939-1940, bao gồm cả vùng Vilnius có màu nâu và cam **Tối hậu thư Ba Lan gửi Litva năm 1938** là một tối hậu
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Chiến tranh Nga–Ba Lan** diễn ra giữa nước Nga Xô viết và Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan do xung đột sắc tộc cũng như thái độ chống cộng của Ba Lan từ 1919 đến
Cuộc **chiến tranh Ba Lan-Litva** là cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước Ba Lan và Litva sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cuộc chiến này vốn diễn ra để tranh giành quyền
**Ủy ban Cách mạng Lâm thời Ba Lan** (Tiếng Ba Lan: _Tymczasowy Komitet Rewolucyjny Polski_, viết tắt là _Polrewkom_, Tiếng Nga: _Польревком_) là một cơ quan chính quyền được thành lập bởi những người Bolshevik
**Chiến dịch Ba Lan** của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô (viết tắt: НКВД (tiếng Nga), NKVD (chuyển tự Latinh)) từ 1937 tới 1938 là một trong những chiến dịch thanh trừng của NKVD
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Lịch sử Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva** (1764–1795) liên quan đến những thập kỷ tồn tại cuối cùng của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Thời kỳ này nhà nước suy tàn theo đuổi
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
thumb|upright=1.35|Hành lang Ba Lan giai đoạn 1923–1939 upright=1.35|thumb|[[Phổ hoàng gia|Phổ Ba Lan giai đoạn năm 1466–1772]] thumb|upright=1.35|Đa số [[người Ba Lan|Ba Lan (xanh lục) và các khu vực của Đức trong Hành lang (điều tra
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
**Liên Xô xâm lược Ba Lan năm 1939**, còn được gọi là **Chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina** bởi Liên Xô, là một cuộc xung đột quân sự không có lời tuyên
nhỏ|Đội tuyển Ba Lan trước trận đấu lịch sử với Hungary (18 tháng 12 năm 1921 tại Budapest) **Trận đấu giữa Ba Lan và Hungary năm 1921** chính là trận đấu lịch sử của Đội
**Giáo Hội Công Giáo quốc gia Ba Lan** (viết tắc là **PNCC**) là một tổ chức Kitô giáo có trụ sở tại Hoa Kỳ và được thành lập bởi những người Ba Lan sống tại
phải|nhỏ|366x366px|Binh lính Ba Lan ở Vilnius (Wilno), 1920 **Cuộc nổi dậy của Żeligowski** ( also _żeligiada_, ) là một cuộc nổi dậy quân sự do tướng Lucjan Żeligowski cầm đầu vào tháng 10 năm 1920,
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
nhỏ|Mạng lưới đường cao tốc.
nhỏ|Hệ thống các con đường ở Ba Lan trong mục tiêu xây dựng ## Lịch sử giao thông ở Ba Lan ## Giao thông đường
**Quan hệ Nga–Ukraina** chuyển thành quan hệ liên quốc gia sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Quan hệ ngoại giao giữa Liên bang Nga và Ukraina độc lập được thiết lập vào
[[Tập tin:Two Chinas.svg|thumb|293x293px|Quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới và Đài Loan.
]] **Trung Hoa Dân Quốc (THDQ)**, thường được gọi là **Đài Loan**, hiện tại có quan hệ ngoại
**August III** (tiếng Ba Lan: _August III Sas_, tiếng Litva: _Augustas III_; 17/10/1696 – 5/10/1763) là vua của Ba Lan và Đại vương công Lietuva từ 1734 đến 1763, đồng thời là Tuyển hầu xứ
**Hiệp hội Quý tộc Ba Lan** (**PNA**) (, **ZSzP**) - là một tổ chức văn hóa xã hội, được đăng ký năm 1995 tại Gdańsk. Hiệp hội nhằm mục đích tích hợp giới quý tộc
Tất cả các hoạt động trong lịch sử của Ba Lan nhằm mục đích giáo dục và nuôi dạy. Các cấu trúc cơ bản mà các hoạt động giáo dục được thực hiện trong nhà
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Lịch sử Ba Lan** bắt đầu với cuộc di cư của người Slav vốn đã dẫn tới sự ra đời của các nhà nước Ba Lan đầu tiên vào đầu Trung cổ, khi các dân
Ngôn ngữ chính được nói ở **Ba Lan** là tiếng Ba Lan. Cộng đồng người khiếm khuyết sử dụng Ngôn ngữ ký hiệu Ba Lan thuộc Ngôn ngữ ký hiệu của Đức. Theo **Đạo luật
thumb|Các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc **Hàn Quốc** duy trì quan hệ ngoại giao với 191 quốc gia. Đất nước này cũng là thành viên của Liên hợp quốc kể
nhỏ|Biên giới cực nhỏ|Biên giới Ba Lan, với biên giới Ba Lan-Bêlarus được đánh dấu màu cam nhỏ|Bộ đội Biên phòng Bêlarut tuần tra hàng rào biên giới Biên giới **Ba Lan-Belarus** là biên giới
**Công ước Viên về quan hệ ngoại giao** năm 1961 là một hiệp ước quốc tế xác định khuôn khổ cho quan hệ ngoại giao giữa các nước độc lập. Nó chỉ định các đặc
**Công ước Viên về quan hệ lãnh sự** là một điều ước quốc tế quy định về quan hệ lãnh sự giữa các quốc gia có chủ quyền. Công ước hệ thống hóa những tập
nhỏ| [[Żelazowa Wola|Elazowa Wola, nơi sinh của Fryderyk Chopin. ]] nhỏ|Một trang viên lớn ở Lopuszna với mái nhà mansard, điển hình cho tất cả các trang viên Ba Lan phải|nhỏ| Nội thất của một
**Cuộc khủng hoảng tị nạn Ukraina** là một cuộc di chuyển lớn của người dân Ukraina trong cuộc xâm lược do Nga tiến hành vào năm 2022. Khủng hoảng bắt đầu với cuộc xâm lược
**Chiếm đóng quân sự bởi Liên Xô** viết về các vụ chiếm đóng bằng vũ lực của Liên Xô từ lúc mở màn cho tới sau thế chiến thứ hai và sau đó trong thời
**Litva** (phiên âm: _Lít-va_; ), tên chính thức là **Cộng hòa Litva** () là một quốc gia thuộc khu vực châu Âu theo thể chế cộng hòa. Theo sự phân chia của Liên Hợp Quốc,
Lực lượng **Armia Krajowa**, còn được biết tới là **Quân đội Nhà** (**Home Army**) (; , gọi là **AK**), là lực lượng chủ lực của Ba Lan trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Quốc hội Cộng hòa Litva** (), thường được gọi trong tiếng Litva là **Seimas** ( ; ), là cơ quan lập pháp đơn viện của Litva. Quốc hội làm luật và sửa đổi Hiến pháp,
**Đức hóa** () là quá trình truyền bá ngôn ngữ, con người và văn hóa Đức, hay các chính sách khởi đầu cho những thay đổi này. Vấn đề này từng là nguyên tắc chủ
**Đạo luật Độc lập Litva** () là văn kiện tuyên bố khôi phục quyền độc lập của Litva dưới một chính thể dân chủ, thủ đô là Vilnius. Đạo luật được Hội đồng Litva nhất
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
thumb|301x301px|Dòng người di cư vào Litva bị kích động bởi cuộc khủng hoảng biên giới thumb|Cột mốc biên giới có hàng rào ở phía Litva **Khủng hoảng biên giới Belarus–Liên minh châu Âu 2021** là
**Tiếng Litva** (**lietuvių kalba**), là ngôn ngữ chính thức của Litva và được công nhận là một trong những ngôn ngữ chính thức của Liên minh châu Âu. Có khoảng 2,96 triệu người nói tiếng