Lực lượng Armia Krajowa, còn được biết tới là Quân đội Nhà (Home Army) (; , gọi là AK), là lực lượng chủ lực của Ba Lan trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai khi Ba Lan phải đối mặt với hiểm nguy từ Đức Quốc xã và sau đó là Liên Xô trong suốt cuộc chiến. Nó được thành lập năm 1942 từ lực lượng Liên minh vũ trang. Khởi phát là lực lượng nhỏ, tổ chức này đã lớn dần lên theo thời gian và tạo chỗ đứng hàng đầu. Họ trung thành với Chính phủ Ba Lan lưu vong ở Luân Đôn trong suốt cuộc chiến và là lực lượng chủ đạo của Nhà nước ngầm Ba Lan.
Con số ước tính về số quân Ba Lan tham chiến vào năm 1944 của lực lượng này nằm giữa 200.000-600.000, tạo nên lực lượng du kích gần như là lớn nhất châu Âu tham chiến chống phát xít Đức. Lực lượng này giải tán vào năm 1945 sau khi Hồng Quân kéo vào Ba Lan.
Lực lượng này đã mật phục các lữ đoàn phát xít Đức năm 1943 cho tới 1944, và một số trận đánh đã nổ ra. Tuy nhiên, hoạt động nổi tiếng nhất của lực lượng này chính là Khởi nghĩa Warszawa.
Mặc dù là đồng minh của Liên Xô, tuy nhiên do trung thành với chính phủ lưu vong, Liên Xô đã coi lực lượng này là một mối đe dọa cho kế hoạch tương lai nhằm biến Ba Lan thành một nhà nước theo Chủ nghĩa Cộng sản. Vì vậy sau năm 1945, lực lượng ủng hộ nhóm này đã bị đặt ngoài vòng pháp luật cho tới năm 1989 khi Ba Lan tái lập nhà nước Cộng hòa.
Lịch sử
trái|nhỏ|Phù hiệu của Lính Quân đội Nhà
Lực lượng này ra đời vào năm 1942, nhưng trước đó, nó xuất phát từ lực lượng Phục vụ vì Vinh quang Ba Lan (Służba Zwycięstwu Polski) của tướng Michał Karaszewicz-Tokarzewski, vào 27 tháng 9 năm 1939, sau một loạt Cuộc tấn công Ba Lan (1939) và Liên Xô tấn công Ba Lan bởi cả Đức và Nga. 17 tuần sau, vào 17 tháng 11 năm 1939, họ chuyển sang lực lượng vũ trang (Związek Walki Zbrojnej) do tướng Władysław Sikorski đứng đầu. Chính lực lượng này vào 3 năm sau, đã chuyển thành lực lượng Quân đội Nhà ngày nay.
Lực lượng này được coi là lực lượng chủ lực của Chính phủ lưu vong Ba Lan. Gần như lực lượng này được coi là chìa khóa sống còn để chính phủ lưu vong Ba Lan, nếu như theo dự tính là sẽ trở về nằm quyền khi chiến tranh kết thúc. Dù vậy, đôi lúc nó hoạt động khá độc lập với Chính phủ lưu vong.
Cho tới trước năm 1944, lực lượng chủ yếu hoạt động ngầm, với việc đánh phá, hủy hoại trạm liên lạc, kho lương thực và nhu yếu phẩm của quân Đức; đồng thời giải phóng tù nhân và ám sát những kẻ thân phát xít. Ngoài ra còn có lực lượng tình báo riêng nữa.
nhỏ|Lính thuộc [[Kedyw Kolegium A ở phố Stawki thuộc quận Wola, Khởi nghĩa Warszawa, 1944]]
nhỏ|Cơ cấu tổ chức vùng, 1944
Quan hệ
Với người Do Thái
phải|nhỏ|
NOTICECảnh báo đối với người Do Thái đang trốn Ba Lan:the Sheltering of Escaping Jews.There is a need for a reminder, that in accordance with paragraph 3 of the decree of ngày 15 tháng 10 năm 1941, on the Limitation of Residence in [[General Government (page 595 of the GG Register) Người Do Thái rời khỏi khu phố Do Thái mà không được phép cũng sẽ phải chịu án tử hình
Những người cố ý giúp đỡ những người Do Thái bằng cách cung cấp nơi trú ẩn, cung cấp lương thực hoặc bán thực phẩm cho họ sẽ phải chịu án tử hình.This is a categorical warning to the non-Jewish population against:
1) Providing shelter to Jews,
2) Supplying them with Food,
3) Selling them Foodstuffs.
Częstochowa 9/24/42
'''Der Stadthauptmann
Dr. Franke''']]
Bị ảnh hưởng bởi Chủ nghĩa bài Do Thái, lực lượng này không chấp nhận kết nạp người Do Thái làm thành viên. Tuy nhiên, các hồ sơ xác nhận rằng có nhiều người Do Thái là thành viên của Quân đội này như Julian Aleksandrowicz, Stanisław "Shlomo" Aronson, , Leon Kopelman, Marceli Handelsman, (3 người còn lại là chỉ huy cấp cao),. Thế nhưng không có đại diện Do Thái nào sau khi kết thúc chiến tranh.
Đã có báo cáo về các cá nhân hoặc nhóm lính thuộc quân đội này có hành vi bạo hành chống lại người Do Thái, nhưng quy mô của hành vi như vậy vẫn là điều bị tranh cãi. Thái độ của các thành viên trong quân đội này đối với người Do Thái khá đa dạng, tùy thuộc vào mỗi đơn vị.
Với người Nga
Mối quan hệ với người Nga Liên Xô nói chung là khá căng thẳng, bất chấp cả hai bên là Đồng minh của nhau do quá khứ thù hận với các cuộc chiến tranh liên tục trong hàng trăm năm từ thời Đế quốc Nga và Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, đặc biệt là do Nga đã đóng vai trò trong việc Phân chia Ba Lan và khiến Ba Lan vong quốc suốt hơn trăm năm trước, cùng với thêm việc Liên Xô đồng lõa với Đức xâm lược Ba Lan vào năm 1939 đã làm vấn đề thêm căng thẳng. Ba Lan cáo buộc Liên Xô tìm cách gây khó khăn cho các lực lượng kháng chiến như Armia Krajowa trong cuộc chiến. Mối quan hệ vốn không êm đẹp này lại càng gặp khó khăn sau khi Liên Xô tiến quân vào Ba Lan năm 1945. Trong cuộc nổi dậy Warszawa 1944, sự thất bại của Ba Lan dẫn đến hậu quả tàn khốc là cả thành phố Warszawa bị quân Đức phá trụi, và phía Ba Lan buộc tội Liên Xô đã ngừng tiến công nên quân Đức mới có cơ hội quay lại tấn công họ. Vì vậy mà có rất ít sự cộng tác mà chủ yếu là đụng độ ngầm giữa hai bên.
Với người Ukraina
Mối quan hệ với người Ukraina nói chung là khá phức tạp do những nghi kỵ dai dẳng trong lịch sử hai nước. Mặc dù đã từng là đồng minh với các lực lượng dân tộc Chủ nghĩa Ucraina vào năm 1920, nhưng việc những người Ukraina ủng hộ Hồng Quân tấn công Ba Lan năm 1939, và vai trò đầy rối rắm của hai thủ lĩnh phong trào độc lập Ukraina là Stepan Bandera và Roman Shukhevych, những thủ lĩnh của lực lượng Quân đội Kháng chiến Ukraina (UPA) đã gây ra rất nhiều khó khăn cho quân nổi dậy Ba Lan. Trong khi người Ba Lan nhất quyết đánh đuổi phát xít Đức và cả Liên Xô ra khỏi đất nước, thì người Ukraina lại chỉ mong đánh đuổi người Nga, và không mặn mà trước việc chống lại người Đức.
Sự hợp tác giữa hai bên bị ảnh hưởng do tư tưởng đòi lập quốc Ukraina, và nhánh cực đoan của lực lượng UPA, do Bandera lãnh đạo, đã tiến hành nhiều chiến dịch diệt chủng người Ba Lan và người Do Thái. Một trong những sự việc như thế đã xảy ra vào năm 1943-44, được biết tới là vụ thảm sát Volhynia, mà gần 30.000-100.000 người Ba Lan bị tàn sát. Chính điều đó khiến sự thù địch gia tăng, mà về sau này, cũng vẫn khó tan trong lòng người dân Ba Lan.
Ngược lại, các lực lượng Ba Lan cũng tấn công, ám sát các thủ lĩnh du kích của Ucraina, và tiến hành các chiến dịch tấn công các làng quê Ucraina. Theo Grzegorz Motyka, các hành động của Ba Lan đã gây ra 10.000 - 15.000 cái chết của người Ucraina trong các năm 1943-47, bao gồm 8.000-10.000 trong lãnh thổ của Ba Lan ngày nay.
Với người Litva
Sự hợp tác giữa người Litva với Ba Lan là một câu hỏi cũng khó trả lời, do yếu tố quá khứ. Cuộc nổi dậy Żeligowski vào năm 1920 ở Vilnius, vốn là ngòi nổ cho cuộc Chiến tranh Ba Lan-Litva sau đó, và sự kiện sáp nhập Vilnius, vốn được xem là thủ đô thiêng liêng của Litva, khiến cho hai bên chỉ thực sự cộng tác với nhau vào nửa cuối cuộc chiến, từ 1944-45, bất chấp cả hai có kẻ thù chung là Đức và Liên Xô.
Do yếu tố thù địch quá khứ, nhiều người Litva đã chọn cộng tác với Đức Quốc xã, và lực lượng cảnh sát mật Litva đã tàn sát rất nhiều người Ba Lan từ 1941, nổi tiếng nhất là vụ thảm sát Ponary. Nhiều lực lượng thuộc Quân Nhà Ba Lan đã trả đũa bằng các cuộc đột kích và tấn công quân Litva, gây tổn thất nặng nề.
Vào 1944, lực lượng Quân đội Nhà Ba Lan ở Vilnius do tướng Aleksander Krzyżanowski chỉ huy đã đề nghị hợp tác với thủ lĩnh kháng chiến nhưng cũng đầy xảo quyệt người Litva, Povilas Plechavičius, để cùng nhau chống Đức và Nga. Tuy nhiên Povilas từ chối, đòi Ba Lan rút khỏi Vilnius hoặc phải tham chiến chống Nga. Povilas thực ra là chỉ huy của lực lượng phòng thủ lãnh thổ Litva vốn thân Đức, nên việc này được coi là bất khả thi. Thế nhưng, sau khi Quân đội Nhà Ba Lan mật phục và tiêu diệt một tiểu đoàn quân Litva ở trận Murowana Oszmianka, hai bên đã lao vào giao chiến và tàn sát lẫn nhau. Các nhà chức trách Đức đã bí mật để hai bên tự diệt nhau trong khi Nga chộp lấy cơ hội và kéo tới tái chiếm Litva.nhỏ|Bia đá [[Gęsiówka khắc công ơn của người Do Thái bằng tiếng Ba Lan, Hebrew và Anh.]]
Hậu chiến
nhỏ|June 1945 [[Moskva show trial of 16 leaders of the Polish wartime underground movement (including Home Army and civil authorities), who were convicted of "drawing up plans for military action against the Hoa KỳS.R." They had been invited in March 1945 to help organize a Polish Government of National Unity and had been immediately arrested by the Soviet NKVD. Despite the court's lenience, 6 years later only two were still alive.]]
Trước việc Liên Xô kéo sang và sự thành lập chính phủ Cộng sản lên Ba Lan sau này, những người lính từng tham chiến cho lực lượng Quân đội Nhà, vốn không bao giờ chấp nhận sự hiện diện của người Nga, đã tiếp tục chiến đấu chống lại Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Một số nhóm nhỏ vẫn còn tiếp tục chiến đấu cho tới khi bị dập tắt vào năm 1961. Họ được biết tới ở Ba Lan là Những người lính bị nguyền rủa.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Lực lượng **Armia Krajowa**, còn được biết tới là **Quân đội Nhà** (**Home Army**) (; , gọi là **AK**), là lực lượng chủ lực của Ba Lan trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai
**Khởi nghĩa Warszawa** () là một cuộc nổi dậy diễn ra trong thế chiến thứ hai do lực lượng kháng chiến Ba Lan Armia Krajowa (**AK**) tiến hành để giải phóng Warszawa từ tay Đức
**Chiến dịch Vilnius** là đòn phát triển tiếp tục tấn công phát huy chiến quả sau Chiến dịch Minsk của Phương diện quân Byelorussia 3 (Liên Xô) chống lại các lực lượng Đức Quốc xã
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Những người lính bị nguyền rủa** (), là cách gọi về các lực lượng vũ trang chống cộng sản ở Ba Lan sau năm 1945 và được tiến hành bởi những cựu binh của lực
**Thảm sát Ponary** (, , ) là những vụ hành quyết hàng loạt do quân Đức Quốc Xã chiếm đóng Ba Lan và tay sai Litva thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Treblinka** () là một trại hủy diệt do Đức Quốc xã dựng lên trên vùng lãnh thổ Ba Lan chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Vị trí của nó ở gần ngôi
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Trại tập trung Auschwitz** ( ) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính
**Ryszard Siwiec** (; 7.3.1909 — 12.9.1968) là giáo viên, kế toán viên và cựu quân nhân của Armia Krajowa người Ba Lan, người đầu tiên tự sát bằng cách tự thiêu để phản đối vụ
**Błyskawica** là loại súng tiểu liên được chế tạo bởi lực lượng Armia Krajowa của Ba Lan chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã trong chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là
nhỏ|Nhà hát kịch Wegierko nhỏ|Opera và Philharmonic nhỏ|Kịch rối nhỏ|Bảo tàng lịch sử Bialystok nhỏ|Bảo tàng làng Bialystok : _Đây là một bài viết phụ cho Białystok_ Białystok là một trong những trung tâm văn
**Juliusz Kaden-Bandrowski** (sinh ngày 24 tháng 2 năm 1885 tại Rzeszów – mất ngày 8 tháng 8 năm 1944 tại Warsaw) là một nhà báo và tiểu thuyết gia người Ba Lan. Trong giai đoạn
**_The Amazing Race 11_** (có thể gọi là **_The Amazing Race: All-Stars_**) là mùa thứ 11 của chương trình truyền hình thực tế The Amazing Race. 11 đội đã đua từ những mùa trước và
**Piotr Słonimski** (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1922 tại Warszawa, mất ngày 25 tháng 4 năm 2009 tại Paris) là nhà di truyền học người Pháp gốc Ba Lan. Ông là người tiên phong
**Krzysztof Kamil Baczyński**, (; nom de guerre: **Jan Bugaj**; 22 tháng 1 năm 1921 - 4 tháng 8 năm 1944) là một nhà thơ Ba Lan và một người lính quân đội Home, một
**Mirosław Żuławski** (sinh ngày 16 tháng 1 năm 1913 tại Nisko - mất ngày 17 tháng 2 năm 1995 tại Warsaw) là một nhà văn, tác giả văn xuôi, nhà ngoại giao và nhà biên
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
**_Große Aktion_** (; _"Hành động vĩ đại"_) là tên mã của Đức Quốc Xã cho việc trục xuất và giết hàng loạt người Do Thái ở Warsaw Ghetto bắt đầu từ ngày 22 tháng 7
thumb|
Józef Szczepański phải|nhỏ|200x200px| Bia mộ Józef Szczepański trong [[Nghĩa trang Powązki tại Warszawa ]] **Józef Szczepański** (; 30 tháng 11 năm 1922 tại Łęczyca - 10 tháng 9 năm 1944 tại Warszawa) là nhà thơ**Krzysztof Boruń** (23 tháng 11 năm 1923 - 22 tháng 5 năm 2000) là một nhà vật lý, nhà báo và nhà văn chuyên viết về khoa học viễn tưởng Ba Lan. Ông là tác
right|thumb|Jan Twardowski, [[Warsaw (Ba Lan), tháng 3 năm 2000]] **Jan Jakub Twardowski** (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1915 – mất ngày 18 tháng 1 năm 2006) là một nhà thơ và linh mục Công
phải|nhỏ|300x300px|Sylwester Braun tháng 8 năm 1944 **Sylwester Braun** (mật danh **"Kris"**, sinh ngày 1 tháng 1 năm 1909 tại Warszawa – mất ngày 2 tháng 2 năm 1996 tại Warszawa) là nhiếp ảnh gia Ba
**Maria Marcela Chmurkowska** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1901 tại Warszawa, mất ngày 9 tháng 6 năm 1979) là nữ diễn viên sân khấu và điện ảnh Ba Lan. ## Tiểu sử nhỏ|Phần mộ
**Końskowola** là một làng ở đông nam Ba Lan, nằm giữa Puławy và Lublin, gần Kurów, trên bờ sông Kurówka. INó là thủ phủ của một xã (_gmina_) trong huyện Puławy của tỉnh Lublin. Dân
**Lech Aleksander Kaczyński**, IPA: [] (18 tháng 6 năm 1949 – 10 tháng 4 năm 2010) là Tổng thống của Ba Lan và là một nhà chính trị của đảng bảo thủ Pháp luật và
Nạn diệt chủng **Holocaust** (từ tiếng Hy Lạp: **': _hólos_, "toàn bộ" và _kaustós_, "thiêu đốt"), còn được biết đến với tên gọi **Shoah_' (tiếng Hebrew: , _HaShoah'', "thảm họa lớn"), là một cuộc diệt
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Bechowiec-1** là loại súng tiểu liên của Ba Lan sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai được phát triển và chế tạo bởi Armia Krajowa để phục vụ cho việc kháng chiến. Nó
**Jan Czochralski** (đọc là **Gian Chohranxki**; 23 tháng 10 năm, 1885, Exin, Đế quốc Đức - 22 tháng 4 năm 1953, Poznań) là một nhà hóa học người Ba Lan đã phát minh ra quy
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
**Proshchaniye slavyanki** (, tạm dịch là **_Tạm biệt em gái Xlavơ_**) - là một bài hát của Nga viết vào khoảng năm 1912-13 bởi thiếu úy quân nhạc của trung đoàn kỵ binh dự bị
**Quan hệ Ba Lan–Litva** là mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng, Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Litva. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này đã bắt đầu từ thế
**Quan hệ Ba Lan – Nga** (, ) là mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Ba Lan và Liên bang Nga. Hai quốc gia này có một mối quan hệ lâu dài song
nhỏ|240x240px| Tòa nhà được khôi phục của Bảo tàng Quân đội Home ở Krakow **Bảo tàng Quân đội gia đình ở Krakow** () được thành lập tại Kraków, Ba Lan năm 2000, để kỷ niệm
**Đài tưởng niệm Sư đoàn bộ binh số 27 của Volhynia** nằm ở Skwerze Wołyńskim (Quảng trường Volyn) bên cạnh đại lộ chính Trasa Armii Krajowej ở phía bắc Warsaw. Nó kỷ niệm sự đóng
**Chorzów Bigate** (trước đây là **Hajduki Wielkie**) là một quận của thành phố Chorzów của Ba Lan, ở Silesian Voivodeship. Cho đến đầu năm 1939, nó là một đô thị riêng biệt. Một trong những
nhỏ|230x230px| Quảng trường Nhà hát, c. 1925. Cung điện Jabłonowski ở bên trái, [[Nhà hát lớn Vác-sa-va|Nhà hát lớn ở bên phải ]] nhỏ|230x230px| [[Nhà hát lớn Vác-sa-va|Nhà hát lớn ]] nhỏ|230x230px| Cung điện Jabłonowski
**Niebylec** là một ngôi làng ở Strzyżów, Subcarpathian Voivodeship, ở phía đông nam Ba Lan. Đó là khu vực hành chính của Gmina Niebylec. Niebylec nằm ở phía đông của Lesser Poland lịch sử, nằm
**Olsztyn** là một ngôi làng ở Częstochowa, Silesian Voivodeship, ở miền nam Ba Lan. Đó là khu vực hành chính của Gmina Olsztyn. Nó nằm ở Lesser Poland lịch sử, cách khoảng về phía đông
**Modliborzyce** là một thị trấn thuộc Janów Lubelski, Lublin Voivodeship, ở miền đông Ba Lan. Đó là khu vực hành chính của Gmina Modliborzyce. Nó nằm ở tỉnh lịch sử Lesser Poland, cách khoảng về
phải|nhỏ|399x399px| Đài tưởng niệm Kuraś ở Zakopane **Józef Kuraś**, (23 tháng 10 năm 1915 - 22 tháng 2 năm 1947), biệt hiệu "Orzeł" (Đại bàng) và "Ogień" (Lửa); sinh ra ở Waksmund gần Nowy Targ.
**Khu phức hợp Hạ viện và Thượng viện Ba Lan** () là một tổ hợp các tòa nhà nằm ở Warsaw, nơi có tòa nhà trụ sở của Hạ viện và Thượng viện Ba Lan.
**Fiedar Anisimavič Surhanaŭ** (; , 7 tháng 6 năm 1911 tại làng Sudniki, tỉnh Vitebsk - 26 tháng 12 năm 1976, tỉnh Brest) là chính khách Liên Xô và Belarus, nguyên Chủ tịch Đoàn chủ
**Phủ Toàn quyền** (; ; ) chỉ các vùng lãnh thổ của Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan trước đây, bị Đức Quốc xã chiếm đóng quân sự từ năm 1939 đến 1945 nhưng không
**Biểu tình Poznań 1956**, còn gọi là **Tháng Sáu Poznań** (), là cuộc biểu tình đầu tiên trong số các cuộc biểu tình lớn chống lại chính quyền cộng sản của Cộng hòa Nhân dân
**Feliks Żukowski** (30 tháng 5 năm 1904 – 17 tháng 1 năm 1976) là một diễn viên và đạo diễn sân khấu người Ba Lan. Ông từng công tác tại các nhà hát ở Warszawa,
nhỏ **Wawrzyniec Jerzy Żuławski** (14 tháng 2 năm 1916, tại Zakopane – 18 tháng 8 năm 1957, trên dãy Anpơ), còn có tên khác là _Wawa_, là một nhà leo núi, nhà giáo, nhà soạn
**Anne Shirley** là một nhân vật hư cấu được giới thiệu trong cuốn tiểu thuyết năm 1908 _Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh_ của L. M. Montgomery. Shirley xuất hiện xuyên suốt bộ sách