✨Hiệp hội Quý tộc Ba Lan

Hiệp hội Quý tộc Ba Lan

Hiệp hội Quý tộc Ba Lan (PNA) (, ZSzP) - là một tổ chức văn hóa xã hội, được đăng ký năm 1995 tại Gdańsk. Hiệp hội nhằm mục đích tích hợp giới quý tộc của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, chăm sóc các di tích văn hóa của Quý tộc, phổ biến lịch sử và truyền thống của Quý tộc Ba Lan và thúc đẩy tinh thần hiệp sĩ.

Thông tin cơ bản

Hiệp hội được công nhận về mặt pháp lý, đạo luật đã được Tòa án khu vực Gdańsk-Północ khẳng định vào ngày 16 tháng 2 năm 2006. Trụ sở hiệp hội hiện tại được đặt tại thủ đô Warsaw, Ba Lan.

Để trở thành thành viên của hiệp hội, một người phải có nguồn gốc cao quý trong dòng nam giới, do đó là con trai hoặc con gái của một quý ông nam.

Đại diện khu vực của hiệp hội đóng một vai trò quan trọng trong tổ chức. Hiện tại PNA có các đại diện thường trực tại Ciechanów, omża, Olsztyn, Ostrów Mazowiecka, Płock, Przemyśl, Szczecin; ở nước ngoài ở Litva, Canada, ở Đức, ở Thụy Điển và ở Vương quốc Anh.

Hiệp hội hợp tác với các tổ chức khác trong và ngoài nước như: Viện Saint Georges pour la Noblesse từ Pháp, Viện Fernando el Catolico từ Saragossa ở Tây Ban Nha, Hội đồng quý tộc Nga từ Moscow, Liên minh của Quý tộc Bêlarut từ Minsk và nhiều hiệp hội khác. Tại Ba Lan, PNA hợp tác với các tổ chức gia đình độc lập, hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động của họ. PNA liên tục hợp tác với chi nhánh Ba Lan của Huân chương Quân sự có chủ quyền Malta, với nền tảng Pomoc Maltańska, với Hiệp hội Gentry Landed Ba LanHiệp hội Heraldic Ba Lan, trong đó một số thành viên là chuyên gia phả hệ cho hiệp hội.

Hiệp hội không trao các danh hiệu quý tộc hoặc danh hiệu quyền quý nào và nó không hợp tác với các tổ chức mà họ coi là chiếm đoạt, giả, quý tộc, giả quân chủ hoặc giả quân sự.

Tạp chí của hiệp hội, Verbum Nobile, ấn phẩm đầu tiên là vào năm 1992 và vẫn đang được xuất bản cho đến ngày nay. Số đăng ký của tạp chí trong Sổ đăng ký báo chí: 296, ISSN: 1230-4573. Đến nay, (tháng 8 năm 2010) đã có 15 ấn phẩm được phát hành, trong đó có 2 ấn phẩm khối lượng gấp đôi. Tạp chí này tập trung vào các chủ đề rộng lớn hơn của giới quý tộc - truyền thống, văn hóa, lịch sử (bao gồm cả huy hiệu và phả hệ), cũng như các vấn đề hiện tại và nội dung của nó được coi là quan trọng đối với các thành viên và những người ủng hộ tổ chức.

Chi nhánh địa phương

Hiệp hội có các chi nhánh địa phương tại các thành phố sau: Białystok, Gdańsk, Kraków, Szczecin, Toruń, Warszawa, Wrocław.

Những sáng kiến và thành tựu lớn

  • Từ năm 1995 tổ chức một loạt các bài giảng, hội nghị chuyên đề và các buổi khoa học về lịch sử, truyền thống và văn hóa của các quý tộc ở Ba Lan;
  • Hỗ trợ các sáng kiến văn hóa địa phương, ví dụ, năm 2009, chi nhánh của PNA tại Białystok đã thành lập một giải thưởng đặc biệt trong hạng mục nghệ sĩ độc tấu trong Cuộc thi "Bài hát buổi tối" của Quốc tế Moniuszko tại Białystok;
  • Liên hệ với người Ba Lan ở nước ngoài (bao gồm việc tặng sách và bản sao của tạp chí Verbum Nobile cho cộng đồng Ba Lan - các cá nhân và tổ chức đã yêu cầu hỗ trợ như vậy);
  • Phái đoàn của hiệp hội tham gia lễ kỷ niệm các ngày lễ quốc gia (ví dụ: đại diện của hiệp hội vào ngày quốc khánh Ba Lan đặt bó hoa tại lăng mộ của người lính vô danh).
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiệp hội Quý tộc Ba Lan** (**PNA**) (, **ZSzP**) - là một tổ chức văn hóa xã hội, được đăng ký năm 1995 tại Gdańsk. Hiệp hội nhằm mục đích tích hợp giới quý tộc
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
Tất cả các hoạt động trong lịch sử của Ba Lan nhằm mục đích giáo dục và nuôi dạy. Các cấu trúc cơ bản mà các hoạt động giáo dục được thực hiện trong nhà
**_Arlingtonkie Towarzystwo Turystyczno-Krajoznawcze_**, **PTTK** (Hiệp hội du lịch và tham quan Ba Lan) là một tổ chức du lịch phi chính phủ của Ba Lan với 312 chi nhánh trên cả nước. PTTK là một
**Âm nhạc Ba Lan** bao gồm các khía cạnh khác nhau của âm nhạc đương đại và âm nhạc dân gian có nguồn gốc từ Ba Lan. Các nghệ sĩ đến từ Ba Lan bao
thumb|Triều đình Hoàng gia của [[Maria Theresia của Áo|Maria Theresia ở Hofburg, Vienna, Đại công quốc Áo]] **Quý tộc Áo** (tiếng Đức: _österreichischer Adel_; tiếng Anh: _Austrian nobility_) là một nhóm tầng lớp có địa
**Lịch sử Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva** (1764–1795) liên quan đến những thập kỷ tồn tại cuối cùng của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Thời kỳ này nhà nước suy tàn theo đuổi
**Chiến dịch Ba Lan** của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô (viết tắt: НКВД (tiếng Nga), NKVD (chuyển tự Latinh)) từ 1937 tới 1938 là một trong những chiến dịch thanh trừng của NKVD
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
Sau khi Cuộc tấn công Ba Lan được phát động bởi cả Liên Xô và Đức Quốc Xã, các chiến dịch khủng bố và đàn áp người Ba Lan của Liên Xô đã bắt đầu
Tính cách của phụ nữ Ba Lan được định hình bởi lịch sử, văn hóa và chính trị của họ. Ba Lan là quốc gia có một lịch sử lâu dài về hoạt động nữ
**Dòng Huynh đệ Nhà Teuton Thánh Mẫu tại Jerusalem** (tên chính thức tiếng Latinh: _Ordo domus Sanctæ Mariæ Theutonicorum Hierosolymitanorum_; tiếng Đức: _Orden der Brüder vom Deutschen Haus St. Mariens in Jerusalem_), thường gọi tắt
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Hiệp ước Bromberg** (tiếng Đức: _Vertrag von Bromberg_, tiếng Latinh: _Pacta Bydgostensia_) còn gọi là **Hiệp ước Bydgoszcz**, được ký kết giữa John II Casimir của Ba Lan và Tuyển đế hầu Frederick William của
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Nhà Orange-Nassau** (tiếng Hà Lan: _Huis van Oranje-Nassau_, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một
**August II Mạnh mẽ** (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu **Friedrich August I**. Ông
thumb|[[Ernst August I của Hannover|Vương tử Ernst August, con trai thứ 5 của Vua George III, được phong Công tước xứ Cumberland và Teviotdale thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh và sau được thừa
phải|nhỏ|310x310px| "Bible House", trụ sở của Hiệp hội Thánh kinh Pennsylvania, hiệp hội lâu đời nhất ở Hoa Kỳ, thành lập vào năm 1808. **Hiệp hội Thánh kinh** (chữ Đức: _Bibelgesellschaft_, chữ Anh: _Bible society_),
**Ngày Quốc gia Dân tộc ký, Dân tộc học và Nhân chủng học Văn hóa Ba Lan** (tiếng Ba Lan: **_Ogólnopolski Dzień Etnografii, Etnologii i Antropologii Kulturowej_**) là một ngày lễ được tổ chức vào
**Chính sách di cư của Ba Lan** - chính sách được hiểu là chiến lược kiểm soát quá trình di cư nhằm đạt được các mục tiêu và lợi ích được đặt ra của nhà
**Tỉnh Czernihów** hay **Chernihiv** (, ) là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương của Vương quốc Ba Lan (một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva) từ năm 1635 cho đến
**Các ngày lễ ở Ba Lan** được quy định bởi Đạo luật Ngày không làm việc ngày 18 tháng 1 năm 1951 (Ustawa z dnia 18 stycznia 1951 o dniach wolnych od pracy; Tạp chí
**Lịch sử của Ba Lan từ năm 1945 đến năm 1989** bao gồm thời kỳ thống trị của Liên Xô và sự quản lý nước này dưới chế độ cộng sản được áp đặt sau
**Katarzyna Jagiellonka** (; Tiếng Litva: _Kotryna Jogailaitė_; 1 tháng 11 năm 1526 – 16 tháng 9 năm 1583) là Vương nữ của Liên bang Ba Lan-Lietuva và là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1569
**Hiệp sĩ Thập tự** hay **Hiệp sĩ Thánh chiến** (tiếng Ba Lan: Krzyżacy) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử năm 1900 được viết bởi nhà văn theo chủ nghĩa thực chứng Ba Lan và
**Đại hội Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga lần thứ II** được tổ chức trong thời gian từ ngày 30/7 - 23/8 (17/7 - 10/8, lịch cũ) năm 1903, bắt đầu tại Brussels,
**Giáo hội Chính thống giáo Độc lập Ba Lan** (), thường được biết đến là **Giáo hội Chính thống giáo Ba Lan**, hoặc **Giáo hội (Chính thống giáo) Ba Lan** là một trong những Giáo
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
thumb|Tranh vẽ Viện Quý Tộc ngày xưa. Viện này bị cháy năm 1834. **Viện Quý tộc** (tiếng Anh: _House of Lords_) là thượng viện của Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
**Quốc gia hetman Cossack** (; , hay _Nhà nước Cossack_), tên chính thức là **Quân đoàn Zaporizhia** (; ), là một nhà nước của người Cossack nằm tại Trung Ukraina. Nhà nước này tồn tại
**Margaret của Liên hiệp Anh** (Margaret Rose; 21 tháng 8 năm 1930 – 9 tháng 2 năm 2002) là con gái út của George VI của Liên hiệp Anh và Elizabeth Bowes-Lyon và là người
**Lão Vương Zygmunt I** (, ; 1 tháng 1 năm 1467 - 1 tháng 4 năm 1548) là một quân vương của triều đại Jagiellon, trị vì như là Vua Ba Lan và cũng là
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
nhỏ|Ngôi nhà gốc ở hẻm [[Frankfurter Judengasse]] nhỏ|Một căn nhà của gia tộc Rothschild, [[Lãnh địa tại Waddesdon, Buckinghamshire, được hiến tặng từ thiện bởi gia đình năm 1957]] nhỏ|Một ngôi nhà trước đây thuộc
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
Một kị sĩ thuộc dòng [[Black Prince đang diễu hành, tượng đồng 1850]] **Hiệp sĩ** hay **Kị sĩ** (tiếng Anh: Knight) là tầng lớp thấp nhất trong giới quý tộc ở Châu Âu thời trung
phải|_[[Những người Zaporozhe (tranh)|Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ_. Tranh của Ilya Repin từ năm 1880 tới năm 1891.]] phải|Một gia đình cossaks người mỹ vào những năm 1950 phải|Một binh đoàn
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
thế=Membership of the Convention on the Elimination of All Forms of Racial Discrimination|phải|nhỏ|400x400px| Tư cách thành viên của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc: **Công ước quốc tế về