August II Mạnh mẽ (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu Friedrich August I. Ông cũng đồng thời là Khâm sai (Reichsvikar) của Hoàng đế La Mã Thần thánh, vua của Ba Lan (với tôn hiệu August II) và Đại vương công Lietuva (với tôn hiệu Augustas II).
Là vua của Ba Lan (August II) và Đại vương công Lietuva, đồng thời là tuyển hầu xứ Sachsen, August II bảo trợ khoa học và nghệ thuật. Ông đã thành lập thủ đô Saxon của Dresden như một trung tâm văn hóa lớn, thu hút các nghệ sĩ từ khắp châu Âu đến triều đình của ông. Augustus cũng tích lũy một bộ sưu tập nghệ thuật ấn tượng và xây dựng các cung điện baroque xa hoa ở Dresden và Warsaw.
August II lên ngôi khi tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn. Ông lãnh đạo Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva tham gia Đại chiến Bắc Âu, dẫn đến việc Đế quốc Nga tăng cường ảnh hưởng của nó ở châu Âu, đặc biệt là ở Ba Lan. Ông lên ngôi vua Ba Lan hai lần, trị vì cho đến khi bị Nghị viện truất phế và qua đời.
Cuộc đời
August được sinh ra tại Dresden vào ngày 12 tháng 5 năm 1670, con trai của tuyển hầu Johann Georg III và Anne Sophie của Đan Mạch. August không được chọn làm người kế ngôi khi tuyển hầu Johann Georg III quyết định cử con trai cả là Johann Georg IV lên nhận chức tuyển hầu xứ Sachsen vào năm 1691.
Thời trai trẻ, August được hưởng nền giáo dục tốt ở Pháp và nhiều lần du lịch khắp nước Pháp. Ông kết hôn với Kristiane Eberhardin ở Brandenburg-Bayreuth vào ngày 20 tháng 1 năm 1693. Họ có một đứa con trai, Frederick Augustus II (1696-1763), người kế vị cha ông là Tuyển hầu tước Saxony và Vua Ba Lan là August III.
Năm 1694, trong khi đang tham dự lễ hội ở Venice, Johann Georg IV trú tạm ở nhà của người tình là Magdalene Sybille của Neidschutz và mắc bệnh đậu mùa. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1694, Johann Georg chết mà không có con thừa kế và người em trai August trở thành Tuyển hầu tước Saxony, như Friedrich Augustus I
Cải đạo sang Công giáo
Để hội đủ điều kiện được bầu lên ngai vàng của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva năm 1697, Augustus phải chuyển sang Công giáo La Mã. Tuyển hầu tước xứ Sachsen vốn theo Tin lành từ lâu, nay biết tin tuyển hầu August I chuẩn bị chuyển qua Công giáo thì những người dân Sachsen Tin lành lục đục phản đối và khởi nghĩa. Tuyển hầu August tỏ ra là một nhà cai trị giỏi khi ông tiến hành cải cách để làm dịu mâu thuẫn với nhân dân, đồng thời ông cũng dần dần xa lánh đạo Tin lành. Dựa vào lượng ngân sách khổng lồ của tuyển hầu tước, August chuẩn bị cho tham vọng kế thừa ngôi vua Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva mà sử sách gọi là "nhà phiêu lưu Ba Lan" (Polish adventure)
Chính sách tôn giáo hướng về Công giáo của August đã làm trái ngược truyền thống của xứ Sachsen vốn theo Tin lành. Các tuyển hầu, hoàng thân theo Tin lành ở Hannover và Phổ rất lo lắng trước việc tuyển hầu August I theo Công giáo. Theo hòa ước Augsburg năm 1555, tuyển hầu August có quyền theo Công giáo và có thể không theo tôn giáo nào (tự do tôn giáo). Để chuẩn bị chuyển Ba Lan qua Công giáo nhằm thực hiện tham vọng lên ngai vàng của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, August cải đạo cho con trai thừa kế (August III trong tương lai). Các quý tộc Tin lành ra sức phản đối tuyển hầu tước, nhưng bất thành.
Sau Hòa bình Westphalia, Sachsen là thành trì vững chắc của Tin lành giáo. Để xoa dịu các tuyển hầu Tin lành khác, August cử Johann Adolf II, Công tước xứ Saxe-Weissenfels làm người lãnh đạo phe Tin lành trong tương lai. Nhưng khi con trai của tuyển hầu Sachsen chính thức chuyển sang Công giáo, hai tuyển hầu ở Phổ và Hannover âm mưu lật đổ vua August (tuyển hầu Sachsen) (1717 - 1720) nhưng bất thành. Tuyển hầu Sachsen ngoài mặt tuyên bố đất tuyển hầu Sachsen theo Tin lành cho đến khi Đế quốc La Mã thần thánh bị Napoleon lật đổ năm 1806, trên thực tế ông ta đã biến toàn bộ đất tuyển hầu Sachsen theo Công giáo
Người vợ của August, Nữ tuyển hầu Christian Eberhardine, đã từ chối theo gương của chồng và vẫn là một người Tin lành. Bà không tham dự lễ đăng quang của chồng mình ở Ba Lan và trở về một cuộc sống khá yên tĩnh bên ngoài Dresden.
Lên ngôi Vua Ba Lan lần thứ nhất (1694 - 1704)
Sau cái chết của vua Jan III Sobieski, August thắng cử và lên ngôi vua Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva năm 1697 với sự ủng hộ của Đế quốc Nga và Áo, tài trợ cho ông thông qua ngân hàng Berend Lehmann; bất chấp việc các ứng viên Francois Louis, Hoàng tử Conti có nhiều phiếu bầu hơn ông ta. Hai ứng viên đều được tuyên bố làm vua bởi hai cơ quan khác nhau: The Primate Michaŀ Radziejowski tuyên bố Conti; Đức Giám mục Kujawy, Stanisław Dąmbski tuyên bố August làm vua. Tuy nhiên, August vội vã đến Liên bang với quân đội Saxon, trong khi Conti ở lại Pháp trong hai tháng.
Năm 1695, August II đem quân đánh Đế quốc Ottoman bên cạnh đồng minh lâu đời là Đế quốc La Mã thần thánh. Trong chiến dịch Moldavia, ông đánh tan quân Tatars trong trận Podhajce năm 1698, buộc Sultan Mustafa II ký Hiệp ước Karlowitz năm 1699 nhượng Ukraine và Podolia cho Ba Lan. Là một người cai trị đầy tham vọng, August II củng cố tình hình đất nước bằng các cuộc chiến tranh bên ngoài. Ông đã thành lập một liên minh với Frederick IV của Đan Mạch và Pyotr I của Nga để loại bỏ nhà vua trẻ Karl XII của Thụy Điển (người em họ của August). Phần thưởng của Ba Lan cho sự tham gia trong Chiến tranh Bắc cực là lãnh thổ Livonia của Thụy Điển. Tuy nhiên người em họ tài ba của August đã nhanh chóng đánh bại Đan Mạch rồi quay mũi tấn công sang đánh tan Nga ở Trận Narva (1700), cho phép ông tập trung vào cuộc đấu tranh với August. Tuy nhiên, cuộc chiến này đã là thảm họa cho Thụy Điển như đối với Ba Lan.
Karl XII nhanh chóng đánh tan người anh họ của mình tại trận Riga năm 1701, buộc vua Ba Lan rút khỏi Livonia và tiến thẳng vàoc Ba Lan. Karl đánh chiếm Warsaw vào ngày 14 tháng 5 năm 1702, đánh bại quân đội Ba Lan-Saxon một lần nữa trong trận Kliszów (tháng 7 năm 1702), và chiếm Kraków. Ông đã đánh bại một đội quân khác của August dưới sự chỉ huy của Tướng quân Adam Heinrich von Steinau tại Trận Pułtusk vào mùa xuân năm 1703, bao vậy và chiếm luôn Thorn (Toruń)
Chiến tranh quá lâu, August cần hòa bình. Nhưng người em họ của ông nghĩ rằng August sẽ an toàn ở ngôi vị hơn nếu cử một người lên "giữ hộ" ngôi vị của ông vua hiếu chiến này, và Karl chọn Stanisław Leszczyński lên ngôi vua Ba Lan năm 1704 để rồi buộc cựu vương Ba Lan phải tham gia chiến tranh cùng Thụy Điển chống Nga. Cuộc nội chiến ở Ba Lan (1704-1706) và chiến dịch Grodno (1705-1706) không tốt cho August II. Sau trận đánh Fraustadt, ngày 1 tháng 9 năm 1706, Karl XII xâm chiếm Saxon, buộc August phải giao ngai vàng Ba Lan đến Leszczyński theo Hiệp ước Altranstädt (tháng 10 năm 1706).
Ít lâu sau, Sa hoàng Pyotr I cải cách quân đội và nhanh chóng đánh bại quân Thụy Điển trong trận Poltava (1709). Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của Đế quốc Thụy Điển và sự nổi lên của Đế quốc Nga
Lên ngôi Vua Ba Lan lần thứ hai (1709 - 1733)
Dưới sự ảnh hưởng của Nga, Khối thịnh vượng chung bị suy yếu rất nhiều. Năm 1709, Sa hoàng Nga đưa August II trở lại ngôi vua Ba Lan. Một lần nữa August II đã được cố gắng để thiết lập một chế độ quân chủ tuyệt đối trong Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, nhưng đã phải đối mặt với sự phản đối từ giới quý tộc (szlachta, xem Liên minh Tarnogród). August II quá mỏi mệt với cuộc đấu tranh nội bộ giữa người Saxon và người Ba Lan, dần hình thành phong trào đấu tranh chống triều đình với 18.000 người tham gia. Biết tin nổi loạn, Sa hoàng Nga can thiệp vào Ba Lan bằng cách buộc August II ký hòa ước hòa bình với giới quý tộc tại Sejm Yên tĩnh (Sejm Niemy).
Cuối triều đại của mình, August II ngày càng bớt phụ thuộc vào Nga (và ở một mức độ thấp hơn, trên Áo) để duy trì ngai vàng của mình. Ông duy trì hòa binh với giới quý tộc và từ bỏ tham vọng mở rộng lãnh thổ.
August II mất ở Warzawa nhưng thi thể được đưa tới nhà thờ Cathedral ở Krakow chôn cất, còn trái tim được đưa về Dresden và lưu giữ tại nhà thờ công giáo duy nhất ở Dresden - nhà thờ Hofkirche, ngay bên cạnh bức tường sứ. Huyền thoại kể rằng ông là người mê phái đẹp đến mức đến tận bây giờ cứ mỗi khi có phụ nữ xinh đẹp đi qua nơi cất giữ trái tim ấy thì nó lại nẩy lên!. Mặc dù ông không có quyền đề nghị người thừa kế do đất nước đang bị Nga chi phối, nhưng Sa hoàng lúc này là Anna của Nga đề cử con cả là August lên ngôi, hiệu August III của Ba Lan.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**August II Mạnh mẽ** (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu **Friedrich August I**. Ông
**August III** (tiếng Ba Lan: _August III Sas_, tiếng Litva: _Augustas III_; 17/10/1696 – 5/10/1763) là vua của Ba Lan và Đại vương công Lietuva từ 1734 đến 1763, đồng thời là Tuyển hầu xứ
**Maria Josepha của Ba Lan hay Maria Josepha của Sachsen** (Tiếng Anh: _Maria Josepha Karolina Eleonore Franziska Xaveria_; 4 tháng 11 năm 1731 – 13 tháng 3 năm 1767) là Trữ phi nước Pháp thông
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
**Stanisław II August của Ba Lan** (cũng viết **Stanisław August Poniatowski**; tên khi sinh **Stanisław Antoni Poniatowski**;(17 tháng 1 năm 1732 - 12 tháng 2 năm 1798) là vị vua cuối cùng của Ba Lan,
**Người Ba Lan ở Đức** là cộng đồng người Ba Lan (_Polonia_) lớn thứ hai trên thế giới và lớn nhất ở châu Âu. Ước tính số lượng người Ba Lan sống ở Đức thay
**Katarzyna Jagiellonka** (; Tiếng Litva: _Kotryna Jogailaitė_; 1 tháng 11 năm 1526 – 16 tháng 9 năm 1583) là Vương nữ của Liên bang Ba Lan-Lietuva và là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1569
thumb|Bản sao của [[Vương miện của Bolesław I Dũng cảm, quả cầu hoàng gia và vương trượng được dùng trong lễ đăng quang của Stanisław August Poniatowski năm 1764]] thumb|right|Biểu chương của Vua [[August III
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
Dưới đây là danh sách những người cai trị các thế chế quân chủ ở Ba Lan từ khoảng giữa thế kỷ thứ 10 cho đến năm 1795, từ các Công tước và Vương công
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Friedrich August I của Sachsen** (tiếng Đức: Friedrich August I. von Sachsen; tiếng Ba Lan: Fryderyk August I; 23/12/1750 - 5/5/1827) là thành viên của Nhà Wettin, người cai trị Tuyển đế hầu quốc Sachsen
**Friedrich August II của Sachsen** ( _von Sachsen_; 18 tháng 5 năm 1797 tại Dresden – 9 tháng 8 năm 1854 tại Brennbüchel, Karrösten, Tirol), là vị vua đời thứ 3 của Vương quốc Sachsen,
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
Tất cả các hoạt động trong lịch sử của Ba Lan nhằm mục đích giáo dục và nuôi dạy. Các cấu trúc cơ bản mà các hoạt động giáo dục được thực hiện trong nhà
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Lịch sử Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva** (1764–1795) liên quan đến những thập kỷ tồn tại cuối cùng của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Thời kỳ này nhà nước suy tàn theo đuổi
**Đại chiến Bắc Âu** là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm
**Anton I của Sachsen** (tiếng Đức: _Anton I. von Sachsen_; 27 tháng 12 năm 1755 – 6 tháng 6 năm 1836) là Quốc vương Sachsen từ Vương tộc Wettin. Anton I được biết đến với
**Zygmunt II Augustus** (, ; 1 tháng 8 1520 - 7 tháng 7 năm 1572) là một vị Vua Ba Lan và Đại vương công Lietuva. Ông là người con trai kế vị độc nhất
**Nội chiến Ba Lan (1704–1706)** là một phần của cuộc xung đột lớn hơn ở châu Âu, Đại chiến Bắc Âu. Cuộc chiến tập trung vào việc giành ngai vàng giữa Vua Stanisław I được
**Friedrich Wilhelm I**, tên thật là **Friedrich Wilhelm von Hohenzollern**, (14 tháng 8 năm 1688 – 31 tháng 5 năm 1740), phiên âm tiếng Việt là **Phriđrích I Vinhem** là một thành viên của Hoàng
**Bretzenheim** là một Thân vương quốc ở Đức thời tiền Napoléon. Nó được tạo ra vào năm 1790 cho Thân vương Karl August (1769-1823) thuộc dòng Wittelsbach-Bretzenheim của Nhà Wittelsbach, con hoang hoàng gia của
**Bảo tàng John Paul II và Giáo trưởng Wyszyński** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Jana Pawła II i Prymasa Wyszyńskiego_) là một bảo tàng tọa lạc tại số 1 phố Giáo trưởng August Hlond, Warsaw, Ba
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
**August Wilhelm** là một hoàng thân nước Phổ. Ông sinh vào ngày 9 tháng 8 năm 1722 tại kinh thành Berlin, là con của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophia Dorothea của Đại Anh,
**Frederick Augustus III** (tiếng Đức: Friedrich August III; 25/05/1865 - 18/02/1932) là vị Vua cuối cùng của Vương quốc Sachsen, tại vị từ năm 1904 đến khi thoái vị vào năm 1918, ông là thành
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**George II của Vương quốc Liên hiệp Anh** (George Augustus, tiếng Đức: _Georg II. August_, 30 tháng 10 hoặc 9 tháng 11 năm 1683 – 25 tháng 10 năm 1760) là Quốc vương Liên hiệp
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Lão Vương Zygmunt I** (, ; 1 tháng 1 năm 1467 - 1 tháng 4 năm 1548) là một quân vương của triều đại Jagiellon, trị vì như là Vua Ba Lan và cũng là
nhỏ|280x280px| Bảo tàng Thánh đường John Paul II **Bảo tàng Thánh đường John Paul II** là một bảo tàng ở Kraków, Ba Lan. Nó nằm trên đồi Wawel, giữa Cổng Vasa và trụ sở cũ
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725
Dom **Fernando II** (tiếng Đức: _Ferdinand II_; tiếng Anh: _Ferdinand II_) (29 tháng 10 năm 1816 – 15 tháng 12 năm 1885) là một Thân vương người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, và là
thumb|Hình của Vua Johan III trên tường [[:en:Stockholm Palace|cung điện Stockholm.]] **Johan III** (, ) (20 tháng 12, 1537 - 17 tháng 11, 1592) là Quốc vương của Thụy Điển từ năm 1568 cho đến
thumb|Varsovian Trumpet Call **Warszawa** (; phiên âm "Vác-sa-va"), tên chính thức là **Thành phố Thủ đô Warszawa** () là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Ba Lan. Thành phố đô thị của
**Quedlinburg** () là một thị trấn nằm ở phía bắc của dãy núi Harz, thuộc quận Harz, ở phía tây của Sachsen-Anhalt, Đức. Năm 1994, lâu đài, nhà thờ và khu phố cổ đã được
**Vương quốc Ba Lan** () là tên của nhà nước Ba Lan trong những năm 1000 đến năm 1795, và từ năm 1815 đến năm 1916, là tên chính thức một liên minh cá nhân
**Hoàng tử Andrzej Poniatowski** (16 tháng 7 năm 1735 - 3 tháng 3 1773) là một nhà quý tộc, đồng thời cũng là một vị tướng và Thống chế người Ba Lan. Andrzej là con
**Stanisław I Leszczyński (**; (20 tháng Mười 1677 – 23 tháng Hai 1766) là một vị vua của Liên bang Ba Lan-Litva, Công tước xứ Lorraine và Bá tước của Đế quốc La Mã thần
**Luise Philippine của Phổ** (tiếng Đức: _Luise Philippine von Preußen_; tiếng Anh: _Louise Philippine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Luise Philippine_; 24 tháng 5 năm 1770 – 7 tháng 12 năm 1836) là
**Treblinka** () là một trại hủy diệt do Đức Quốc xã dựng lên trên vùng lãnh thổ Ba Lan chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Vị trí của nó ở gần ngôi
**Jan III Sobieski** (17 tháng 8 năm 1629 - 17 tháng 6 năm 1696) là một trong những vị vua nổi tiếng nhất của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva, là vua
**Gustav August Wilhelm Malotki von Trzebiatowski** (7 tháng 11 năm 1808 tại Klein Bölkau, Danzig – 21 tháng 7 năm 1873 tại Weilburg) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp
**_Ten no hate made - Porando hishi_** (天の涯まで―ポーランド秘史?), tiếng Việt gọi là **_Tới cuối thiên đường - Lịch sử bí mật của Ba Lan_**, là một manga lịch sử của Ikeda Riyoko viết vào năm
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1