✨Anton I của Sachsen

Anton I của Sachsen

Anton I của Sachsen (tiếng Đức: Anton I. von Sachsen; 27 tháng 12 năm 1755 – 6 tháng 6 năm 1836) là Quốc vương Sachsen từ Vương tộc Wettin. Anton I được biết đến với cái tên Anton der Gütige ("Anton Tốt bụng").

Anton I là con trai thứ năm của Friedrich Christian I, Tuyển hầu tước xứ Sachsen và Maria Antonia xứ Bayern.

Trước khi lên ngôi

Với rất ít cơ hội tham gia vào các hoạt động chính trị của Tuyển hầu quốc Sachsen hoặc nhận được bất kỳ vùng lãnh thổ nào từ người anh Friedrich August III, Anton đã sống một cách thầm lặng. Không có Tuyển hầu tước Sachsen kể từ Johann Georg I trao tước vị cho những người con trai thứ của mình.

Trong những năm đầu tiên dưới triều đại của anh trai với tư cách là Tuyển hầu, Anton đứng thứ ba trong hàng ngũ thừa kế. Với cái chết của người anh trai thứ ba là Joseph (25 tháng 3 năm 1763) và của người anh thứ hai là Karl (8 tháng 9 năm 1781), Anton trở thành người thừa kế hàng đầu. Nguyên nhân là do Tuyển hầu phu nhân Amalie chỉ sinh được một người con gái khỏe mạnh.

Dì của Anton, Maria Josepha của Ba Lan và Sachsen, Trữ phi nước Pháp, muốn gả con gái Marie Zéphyrine của Pháp cho Anton tuy nhiên kế hoạc đã thất bại vì Marie Zéphyrine đã qua đời vào năm 1755. Một ứng cử viên người Pháp khác là em gái của Marie Zéphyrine, Marie Clotide của Pháp (sau này là Vương hậu Sardegna) nhưng không thành.

Tại Torino, vào ngày 29 tháng 9 năm 1781 (ủy nhiệm) và một lần nữa ở Dresden vào ngày 24 tháng 10 năm 1781 (trực tiếp), Anton kết hôn với Maria Carolina của Sardegna, con gái của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha. Maria Carolina qua đời chỉ sau một năm chung sống vào ngày 28 tháng 12 năm 1782 vì bệnh đậu mùa và hai vợ chồng không có con với nhau.

Tại Firenze, vào ngày 8 tháng 9 năm 1787 (ủy nhiệm) và một lần nữa ở Dresden vào ngày 18 tháng 10 năm 1787 (trực tiếp), Anton tái hôn với Nữ Đại vương công Maria Theresia Josepha của Áo (Maria Theresia Josepha Charlotte Johanna), con gái của Đại Công tước Leopold I xứ Toscana (sau này là Hoàng đế Leopold II của Thánh chế La Mã) và María Luisa của Tây Ban Nha. Vở opera Don Giovanni của Mozart ban đầu được dự định trình diễn để vinh danh cô dâu của Anton trong chuyến thăm Praha vào ngày 14 tháng 10 năm 1787, khi Maria Theresia Josepha di chuyển từ Viên sang Dresden để dự buổi lễ mừng, và các bản librettos đã được in ra, trong đó đều có tên của cả Anton và Maria Theresia Josepha. Tuy nhiên, buổi ra mắt không thể được sắp xếp kịp thời nên vở opera Đám cưới của Figaro đã được thay thế theo lệnh cấp tốc của người bác bên nội của cô dâu là Hoàng đế Joseph II của Thánh chế La Mã. Nhiều người tham dự cho rằng việc lựa chọn Cuộc hôn nhân của Figaro là không phù hợp đối với một tân nương, và Nữ Đại vương công Maria Theresia đã rời nhà hát opera sớm mà không xem hết buổi trình diễn tác phẩm. Mozart đã than phiền về những âm mưu xoay quanh sự cố này trong một bức thư gửi cho bạn là Gottfried von Jacquin, được viết trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 25 tháng 10 năm 1787. Anton đã có mặt tại Praha vào tháng 9 năm 1791 để tham dự buổi biểu diễn đầu tiên vở opera La clemenza di Tito của Mozart, được viết như một phần của lễ đăng quang của cha vợ Anton là Hoàng đế Leopold II của Thánh chế La Mã với tư cách là Quốc vương Bohemia.

Hai vợ chồng có với nhau bốn người con, ba gái và một trai, nhưng không người con nào có thể sống đến hai tuổi:

Maria Ludovika Auguste Fredericka Therese Franziska Johanna Aloysia Nepomucena Ignatia Anna Josepha Xaveria Franziska de Paula Barbara (Dresden, 14 tháng 3 năm 1795 – Dresden, 25 tháng 4 năm 1796)

Friedrich August (sinh và mất tại Dresden, 5 tháng 4 năm 1796)

Maria Johanna Ludovica Anna Amalia Nepomucena Aloysia Ignatia Xaveria Josepha Franziska de Chantal Eva Apollonia Magdalena Crescentia Vincentia (Dresden, 5 tháng 4 năm 1798 – Dresden, 30 tháng 10 năm 1799)

Maria Theresia (sinh và mất tại Dresden, 15 tháng 10 năm 1799)

Trong khoảng thời gian này, Bà Tuyển hầu Amalie sinh một ra một đứa trẻ chết lưu lần cuối cùng vào năm 1799. Sau đó, Anton được coi như sẽ kế vị Tuyển hầu quốc Sachsen mà được nâng lên thành vương quốc vào năm 1806.

Quốc vương Sachsen

trái|nhỏ| Huy chương giới thiệu Hiến pháp năm 1831. Mặt sau thể hiện phần đầu của Quốc vương Anton và Đồng Nhiếp chính [[Friedrich August II của Sachsen|Friedrich August.]] nhỏ|Huân chương Thiếc của hiến pháp mới, mặt sau. Anton kế vị anh trai Friedrich August I trở thành Quốc vương Sachsen sau cái chết của anh trai vào ngày 5 tháng 5 năm 1827. Tân vương 71 tuổi hoàn toàn thiếu kinh nghiệm trong chính quyền và do đó không có ý định khởi xướng những thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại và đối nội của mình.

Các nhà ngoại giao Phổ đã thảo luận về việc trao tỉnh Rhineland của Phổ (người ở đây chủ yếu là tín hữu Công giáo) cho Anton I (một người Công giáo) để đổi lấy Vương quốc Sachsen chủ yếu theo Luther vào năm 1827, nhưng những cuộc đàm phán này không mang lại kết quả gì.

Sau Cách mạng Tháng Bảy ở Pháp năm 1830, tình trạng hỗn loạn ở Sachsen xảy ra vào mùa thu, chủ yếu nhằm chống lại Hiến pháp cũ. Vì vậy, vào ngày 13 tháng 9, bên nội các đã cách chức Bá tước Detlev von Einsiedel, tiếp theo là Bernhard von Lindenau. Vì người dân mong muốn có một nhiếp chính trẻ tuổi hơn nên Aton I đã đồng ý bổ nhiệm cháu trai Friedrich August trở thành Đồng Vương tử Nhiếp chính (Prinz-Mitregenten). Một hiến pháp mới đã được thông qua vào năm 1831 và có hiệu lực vào ngày 4 tháng 9 cùng năm Với hiến pháp mới, Sachsen đã trở thành một Vương quốc theo chế độ quân chủ lập hiến và có được cơ quan lập pháp lưỡng viện và chính phủ nội các chịu trách nhiệm, thay thế các địa chủ phong kiến cũ. Hiến pháp có tính bảo thủ hơn so với các hiến pháp khác hiện có ở Liên minh Đức lúc bấy giờ. Tuy nhiên, hiến pháp có hiệu lực ở Sachsen cho đến năm 1918. Quốc vương vẫn nắm giữ quyền lực tối cao nhưng bị ràng buộc bởi Công việc Chính phủ và phải hợp tác với các Bộ trưởng và các quyết định của cuộc họp của cả hai Viện (de: Kammern der Ständeversammlung ). Việc Sachsen gia nhập Liên minh quan thuế Đức Zollverein vào năm 1833 đã giúp thương mại, công nghiệp và giao thông phát triển hơn nữa.

Với việc không có nam duệ, Anton I được cháu trai là Friedrich August II kế vị.

Gia phả

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Anton I của Sachsen** (tiếng Đức: _Anton I. von Sachsen_; 27 tháng 12 năm 1755 – 6 tháng 6 năm 1836) là Quốc vương Sachsen từ Vương tộc Wettin. Anton I được biết đến với

Tiếng Anh: John Nepomuk Maria Joseph Anthony Xavier Vincent Aloysius Francis de Paula Stanislaus Bernard Paul Felix Damasus | kiểu hoàng tộc = Vương tộc | hoàng tộc = Nhà Wettin | cha =
**Friedrich August I của Sachsen** (tiếng Đức: Friedrich August I. von Sachsen; tiếng Ba Lan: Fryderyk August I; 23/12/1750 - 5/5/1827) là thành viên của Nhà Wettin, người cai trị Tuyển đế hầu quốc Sachsen
**Albert I của Sachsen** (tên đầy đủ: _Friedrich August Albrecht Anton Ferdinand Joseph Karl Maria Baptist Nepomuk Wilhelm Xaver Georg Fidelis_) (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1828 tại Dresden – mất ngày 19 tháng
**Friedrich August II của Sachsen** ( _von Sachsen_; 18 tháng 5 năm 1797 tại Dresden – 9 tháng 8 năm 1854 tại Brennbüchel, Karrösten, Tirol), là vị vua đời thứ 3 của Vương quốc Sachsen,
**Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst I. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto I de Sajonia-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest I of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (tên đầy đủ: _Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld_; 15 tháng 7 năm 1750 – 9 tháng 12 năm 1806), là một trong những công tước có chủ quyền thuộc dòng
**Maria Carolina của Sardegna** (Maria Carolina Antonietta Adelaide; 17 tháng 1 năm 1764 – 28 tháng 12 năm 1782) là Vương nữ Sardegna, con gái út của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**Maria Anna Carolina của Sardegna** (_Maria Anna Carolina Gabriella_; 17 tháng 12 năm 1757 – 11 tháng 10 năm 1824) là Vương nữ Savoia, con gái của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia
thumb|Ludwig I của Bayern khi còn là thái tử, được vẽ năm 1807 bởi [[Angelika Kauffmann]] **Ludwig I của Bayern,** (tiếng Đức: _Ludwig I. von Bayern_; 25 tháng 8 năm 1786 tại Straßburg; 29 tháng
**Ida xứ Sachsen-Meiningen** (_Ida Caroline von Sachsen-Meiningen_; 25 tháng 6 năm 1794 – 4 tháng 4 năm 1852), là Công nữ Sachsen-Meiningen. Chị gái của Ida, tức Adelheid xứ Sachsen-Meiningen, là Vương hậu của Vương
**Friedrich III, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (14 tháng 4 năm 1699 - 10 tháng 3 năm 1772), là công tước đời thứ 3 xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, thuộc dòng Ernestine, nhánh trưởng của Triều đại Wettin. Ông
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
Dom **Fernando II** (tiếng Đức: _Ferdinand II_; tiếng Anh: _Ferdinand II_) (29 tháng 10 năm 1816 – 15 tháng 12 năm 1885) là một Thân vương người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, và là
**Maria Anna của Bayern** (tiếng Đức: _Maria Anna von Bayern_; tên đầy đủ: _Maria Anna Leopoldine Elisabeth Wilhelmine von Wittelsbach_; 27 tháng 1 năm 1805 – 13 tháng 9 năm 1877), thường được gọi là
**Vương tử Philippe của Bỉ, Bá tước xứ Flandre** (24 tháng 3 năm 1837 - 17 tháng 11 năm 1905) là con trai của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là
**Elisabeth Gabriele của Bayern** (25 tháng 7 năm 1876 – 23 tháng 11 năm 1965), tên đầy đủ là _Elisabeth Gabriele Valérie Marie_, là vợ của Albert I của Bỉ. Bà là Vương hậu Bỉ
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
**Nadezhda của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: _Княгиня Надежда_; tên đầy đủ là **Nadezhda Klementina Mariya Piya Mazhella** (Надежда Клементина Мария Пия Мажелла); Tiếng Đức: _Nadeschda von Bulgarien_; 30 tháng 1 năm 1899 – 15 tháng 2
thumb|Bản sao của [[Vương miện của Bolesław I Dũng cảm, quả cầu hoàng gia và vương trượng được dùng trong lễ đăng quang của Stanisław August Poniatowski năm 1764]] thumb|right|Biểu chương của Vua [[August III
**Maria Anna Friederike của Phổ**, thường gọi là Anna của Phổ (tiếng Đức: _Maria Anna Friederike von Preußen_; 17 tháng 5 năm 1836 – 12 tháng 6 năm 1918) là Vương tôn nữ Phổ thuộc
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Luise Philippine của Phổ** (tiếng Đức: _Luise Philippine von Preußen_; tiếng Anh: _Louise Philippine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Luise Philippine_; 24 tháng 5 năm 1770 – 7 tháng 12 năm 1836) là
**Ludwig II** (_Ludwig Otto Friedrich Wilhelm_; 25 tháng 8 năm 1845 – 13 tháng 6 năm 1886), còn được gọi là **Vua Thiên nga** hoặc **Vua truyện cổ tích** (der Märchenkönig), là Vua của Bayern
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Innsbruck** (, /ˈɪnʃprʊk/) là thủ phủ của bang Tirol miền tây nước Áo và là thành phố lớn thứ năm ở Áo. Thành phố này nằm ở vùng sông Inn giao với thung lũng Wipptal
**Trận Soor** diễn ra vào ngày 30 tháng 9 năm 1745 gần làng Soor (Böhmen) trên biên giới Áo-Phổ trong chiến tranh Schlesien lần thứ hai và chiến tranh Kế vị Áo. Tại đây thống
**Nhà Koháry** (tiếng Hungary: _Koháry-ház_) là một gia đình quý tộc Hungary nổi tiếng giàu có, trụ sở đặt tại lâu đài Čabraď và cung điện Szentantal (ngày nay là Svätý Anton, Slovakia). Tháng 2
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Đại chiến Bắc Âu** là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
**Binh đoàn số 3** () là một biên chế đơn vị quân sự được thành lập trong thời gian ngắn trong Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được tạo thành từ các đơn vị quân đội của
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
**Friedrich xứ Hohenzollern-Sigmaringen** hay **Friedrich xứ Hohenzollern** (tiếng Đức: _Friedrich von Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Pháp: _Frédéric de Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Anh: _Frederick of Hohenzollern-Sigmaringen_; tên đầy đủ: _Friedrich Eugen Johann_; 25 tháng 6 năm 1843 tại Lâu
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Lịch sử Bayern** với những dẫn chứng, đã có từ dòng họ gia tộc Agilolfing với trung tâm ở Freising vào năm 555. Sau đó nó là một phần của đế quốc La Mã Thần
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
**Marie Amelie xứ Baden** (tiếng Đức: _Marie Amelie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Maria Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Mary Amelia of Baden_; tên đầy đủ: _Marie Amelie Elisabeth Karoline_; 11 tháng 10 năm 1817
thumb|Huy hiệu của [[Thurn và Taxis#Các Thân vương của Gia tộc Thurn và Taxis|Thân vương xứ Thurn và Taxis]] **Vương tộc Thurn và Taxi** (tiếng Đức: **Fürstenhaus Thurn und Taxis** ) là một gia đình
**Vương tử Kiril của Bulgaria, Thân vương xứ Preslav** (tiếng Bulgaria: Кирил, принц Преславски; tiếng Đức: _Kyrill Heinrich Franz Ludwig Anton Karl Philipp Prinz von Bulgarien_; 17 tháng 11 năm 1895 – 1 tháng 2
**Karl Heinrich Hermann Ludolf Bonaventura Graf von der Goltz** (19 tháng 11 năm 1803 tại Groß-Teschendorf, huyện Riesenburg – 27 tháng 1 năm 1881 tại Potsdam) là một Trung tướng quân đội Phổ, từng tham
**Trận chiến Eylau** là một trận đánh lớn trong cuộc Chiến tranh Liên minh thứ tư trong những cuộc chiến tranh của Napoléon, diễn ra từ ngày 7 cho đến ngày 8 tháng 2 năm
**Eugène de Savoie-Carignan** (18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), hay **François Eugène de Savoie**, thường được biết đến với biệt danh **Hoàng thân Eugène** (, , ), là một lãnh
**Hoàng đế Đức**, đôi khi cũng gọi là **Đức hoàng** (tiếng Đức: **_Deutscher Kaiser_**) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức -
**Bernhard Friedrich von Krosigk** (21 tháng 12 năm 1837 tại Merbitz – 7 tháng 4 năm 1912 tại Fürstenwalde) là người mang quyền thừa kế (_Fideikommissherr_) điền trang Merbitz, Thiếu tướng và thành viên Viện