Hoàng đế Đức, đôi khi cũng gọi là Đức hoàng (tiếng Đức: Deutscher Kaiser) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức - tức "Đế chế thứ hai" của người Đức, mở đầu với sự đăng quang của Hoàng đế Wilhelm I (còn gọi là Wilhelm Đại Đế) trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 tại cung điện Versailles, và kết thúc với sự kiện Hoàng đế Wilhelm II chính thức thoái vị vào ngày 18 tháng 11 năm 1918. Trong suốt lịch sử tồn tại của mình, Đế quốc Đức đã trải qua ba đời Hoàng đế thuộc triều đại nhà Hohenzollern của Vương quốc Phổ.
Hoàng đế nắm phần lớn quyền thống trị Đế quốc Đức. việc Hoàng đế Wilhelm II thoái ngôi đã đánh dấu sự kết thúc của chế độ quân chủ Phổ - Đức.
Ngoài ra, nhiều tài liệu cũng sử dụng từ "Hoàng đế Đức" khi viết về các vị Hoàng đế La Mã Thần thánh ("Đế chế thứ nhất" của người Đức Thực ra, các vị này kiêm nhiệm ngôi Quốc vương Đức.
Khởi thủy
nhỏ|trái|Wilhelm I được suy tôn làm Hoàng đế Đức trong [[Phòng Gương (Cung điện Versailles)|Phòng Gương ở cung điện Versailles, Pháp (họa phẩm của nhà họa sĩ Anton von Werner).]]
Tước hiệu "Hoàng đế Đức" đã được Thủ tướng Otto von Bismarck chắt lọc kỹ lưỡng sau những cuộc bàn cãi cho đến khi (và cả sau khi) vua nước Phổ là Wilhelm I đăng ngôi Hoàng đế (Kaiser - xuất phát từ danh hiệu Caesar của các Hoàng đế La Mã cổ đại). Wilhelm I - vị vua sáng lập ra Đế quốc Đức- đã miễn cưỡng chấp thuận đế hiệu này do ông muốn gọi là "Vua của Đức" (König der Deutschen) - một đế hiệu không được các vua chúa Liên bang Đức chấp nhận, và sẽ chứng tỏ yêu sách của Hoàng đế đối với các lãnh thổ bên ngoài đế quốc của ông (Áo, Liên bang Thụy Sĩ, Luxembourg,…). Danh hiệu Vua của người Đức (König in Germanien), được đề xuất hồi năm 1848, cũng phải loại bỏ do vua Đức coi mình là được lựa chọn "Do Ân điển của Chúa", chứ không phải là do nhân dân như trong một nước Cộng hòa Dân chủ.
Lễ thành lập Đế quốc Đức diễn ra ở cung điện Versailles (Pháp) vào năm 1871, và không phải là ngẫu nhiên mà Bismarck chọn nơi này. Như mọi học sinh Đức đều biết, một thế kỷ trước thời Napoléon Bonaparte, vua Louis XIV của Pháp - người đã xây nên cung điện Versailles - đã xâm lược nước Đức, lăng mạ các Vương hầu Đức. Qua đó, sự kiện này thể hiện sự "trả đũa" của người Đức đối với các cuộc xâm lăng của Louis XIV và Napoléon, cũng như là sự lăng nhục mà người Phổ dành cho Pháp - quốc gia lớn mạnh nhất châu Âu đã bị Phổ đánh bại trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ. Với cuộc đăng quang này, vị Hoàng đế chiến thắng đã nhận được chiếc "Vương miện của Charlemagne và Barbarossa" trong khi Liên bang Bắc Đức (Norddeutscher Bund) được chuyển đổi thành Đế quốc Đức (Deutsches Kaiserreich). Đế quốc này là một quốc gia Liên bang; Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia và cũng là vị Chủ tịch của các vua chúa Liên bang (các vị Quốc vương xứ Bayern, Württemberg, Sachsen, các Đại Công tước xứ Baden, Mecklenburg, Hesse, cũng như nhiều Công quốc do Vương công hoặc Công tước cai quản, các thành phố tự do Hamburg, Lübeck và Bremen). Trong Đế chế Đức, Hoàng đế nắm phần lớn quyền hành (chẳng hạn như quyền bổ nhiệm các quan đại thần và Thủ tướng Chính phủ, quyền tuyên bố chiến tranh và thiết lập hòa bình, quyền điều hành đường lối đối ngoại,…), trong khi Quốc hội (Reichstag) đóng vai trò quan trọng về tài chính và thuế khóa. Qua đó, Bismarck được xem là đã thành công trong việc xây dựng Vương triều của một vị Hoàng đế chuyên quyền.
Hoàng đế Wilhelm I luôn thỏa mãn với việc trị vì đất nước trong khi Bismarck thực sự cầm quyền. Dưới sự thống trị của hai ông, chính thể chuyên chế của Đế quốc Đức được vững tồn. Trong các nước lớn (ngoại trừ Đế quốc Nga), Đức thực sự là quốc gia duy nhất còn đứng vững trước phong trào Cách mạng và các yêu sách dân chủ của quần chúng. Trong lịch sử Đệ nhị Đế chế Đức có năm 1888 được gọi là "Năm ba Hoàng đế" do vào năm ấy Hoàng đế Friedrich III lên kế vị vua cha Wilhelm I trong một thời gian ngắn rồi bệnh mất, để lại ngôi Hoàng đế cho con ông là Wilhelm II. Ông là vị nguyên thủ hùng mạnh nhất ở châu Âu thời đó.), Hoàng đế Wilhelm II còn là người thuộc dòng dõi các Sa hoàng Nga (Tsar). Bản chất của Nhà nước quân chủ Đức có thể được thấy qua lời diễn văn của Wilhelm II vào năm 1890: "Duy chỉ có một người làm chủ Đế quốc này và Trẫm sẽ không thể khoan dung cho những người khác". Mặt khác, Chiến dịch Tổng tấn công Mùa xuân 1918 của Ludendorff - mở đầu với thắng lợi vang dội của quân Đức - đã được đặt tên là Trận chiến của Hoàng đế (Kaiserschlacht), và một bức tranh tuyên truyền của Đức đã cho thấy vị Hoàng đế nước Đức tích cực tham gia lập kế hoạch cho Chiến dịch ấy. Dù sao đi chăng nữa, dẫu cho Hoàng đế thường hay vượt qua các giới hạn mà Hiến pháp Đức quy định và tích cực tận dụng Đế quyền theo các điều khoản của Hiến pháp sau năm 1900, dần dần ông không còn quyền trị nước nữa trong chiến tranh, khiến cho ông trở thành một "Hoàng đế bóng mờ" (Schattenkaiser). Sau thất bại của Chiến dịch Mùa xuân năm 1918, nước Đức cận kề thất bại, phe Hiệp Ước chủ trương trừng trị Đức thật khắt khe chừng nào Hoàng đế Wilhelm II vẫn còn trị vì nước Đức, buộc người Đức phải mở rộng quyền lực của Quốc hội. Song, phe Hiệp Ước vẫn nhất quyết không chịu từ bỏ chủ trương trên. Dù Wilhelm II không muốn thoái vị, phong trào Cách mạng Đức bùng nổ dẫn tới sự thoái vị của ông, đánh dấu sự kết thúc của 3 thập kỷ trị vì của vị Hoàng đế cuối cùng của Vương triều Hohenzollern nói riêng và của nước Đức nói chung.
Chữ "the Kaiser" được dùng phổ biến trong các tài liệu tiếng Anh để chỉ Hoàng đế Wilhelm II, và thậm chí trở thành một từ vựng tiếng Anh. Cuốn tiểu sử Kaiser Wilhelm II: Germany's Last Emperor của tác giả John Van der Kiste cũng giữ nguyên đế hiệu của các vị Hoàng đế Đức như Wilhelm II là Kaiser trong khi dịch đế hiệu của các vị Hoàng đế Áo ra Emperor, và có ghi chú rằng điều đó giúp người đọc không bị nhầm lẫn giữa các vị quân chủ Đức và Áo. Khái niệm chủ nghĩa Hoàng đế (Kaiserism) trong Anh ngữ cũng được dùng cho chế độ chuyên quyền và các chính sách của Hoàng đế Đức, hoặc cũng được định nghĩa là chế độ cai trị chuyên chế.
Các vị Hoàng đế Đức (1871–1918)
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Hoàng đế Đức**, đôi khi cũng gọi là **Đức hoàng** (tiếng Đức: **_Deutscher Kaiser_**) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức -
nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. **Hoàng đế Áo**, đôi khi còn gọi là **Áo hoàng** (tiếng Đức: **_Kaiser von Österreich_**) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
thumb|Giáo hoàng Biển Đức XVI năm 2007 **Giáo hoàng Biển Đức XVI thoái vị** vào ngày 28 tháng 2 năm 2013 lúc 20:00 CET sau khi ông trực tiếp tuyên bố điều này vào sáng
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Julianus** (,; 331/332 – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Giáo hoàng Biển Đức XVI** được Tòa Thánh tuyên bố từ trần lúc lúc 09:34 giờ sáng địa phương (UTC+01) ngày 31 tháng 12 năm 2022 tại Tu viện Mater Ecclesiae (Tu viện Mẹ Hội
**Nhà thờ Hoàng đế Đức** () là một từ ngữ truyền thống để chỉ các nhà thờ lớn, mà có liên hệ đến quyền lực của hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh. ##
nhỏ|Mũ _Dực Thiện Quan_ đan từ sợi vàng của [[Minh Thần Tông|Vạn Lịch Đế, mô phỏng từ bản gốc khai quật từ Định lăng. Theo truyền thống nhà Minh, _Dực Thiện Quan_ màu vàng chỉ
**Theophilos** (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại
**Hoàng Đế** (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là **Hiên Viên Hoàng Đế** (軒轅黃帝), là một vị quân chủ huyền thoại và là anh hùng văn hoá của
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**Hoàng đế của người Pháp** (), thường được gọi tắt là **Hoàng đế Pháp**, là chức vụ của người đứng đầu và nắm quyền lãnh đạo của Đệ nhất và Đệ Nhị Đế chế Pháp.
alt=Painted image of a portly man sitting in a red throne-chair with dragon-head decorations, wearing white silk robes, black shoes, and a black hat, and sporting a black mustache and goatee|Chân dung [[Tống Thái Tổ
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
Dưới đây là **danh sách các hoàng đế Đông La Mã**, bắt đầu từ khi thành phố Constantinopolis được thành lập vào năm 330 CN đến khi nó thất thủ vào tay Đế quốc Ottoman
**Hoàng đế và Quốc vương bệ hạ** (_Imperial and Royal Majesty_, viết tắt là HI&RM) là tước hiệu sử dụng bởi Hoàng đế kiêm Quốc vương và các phối ngẫu của họ với tư cách
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
**Leo I** () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba
**Cá hoàng đế** là một số loài cá nước ngọt thuộc chi _Cichla_ có bản địa ở lưu vực sông Amazon ở Nam Mỹ. ## Tổng quan Đây là một loại cá thường sống ở
**Họ Cá hoàng đế** hay **họ Cá rô phi** (danh pháp khoa học: **_Cichlidae_**) là một họ cá, theo truyền thống xếp trong bộ Perciformes. Tuy nhiên, gần đây người ta chuyển họ này sang
**Họ Ngài hoàng đế** (tên khoa học: _Saturniidae_) là một họ ngài trong bộ Cánh vẩy, gồm khoảng 1.300 đến 1.500 loài đã được miêu tả trên toàn cầu. Một số tên khác của họ
"**Bộ quần áo mới của hoàng đế**" () là một truyện ngắn của nhà văn Hans Christian Andersen về việc hai người thợ dệt hứa với vị hoàng đế là sẽ dệt cho ông một
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** (Tiếng La Tinh: _Benedictus XIV_), còn gọi là **Bênêđíctô XIV** (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: **Prospero Lorenzo Lambertini**) là một giáo
**Biển Đức IX** hoặc **Bênêđictô IX** (Latinh: _Benedictus IX_) là giáo hoàng được liệt kê ở vị trí thứ 145, 147, 150 của Giáo hội Công giáo. Triều đại Giáo hoàng này xảy ra nhiều
**Giáo hoàng Biển Đức XV** (tiếng Latinh: _Benedictus PP. XV_, tiếng Ý: _Benedetto XV_; 21 tháng 11 năm 1854 - 22 tháng 1 năm 1922) tên khai sinh: **Paolo Giacomo Giovanni Battista della Chiesa,** là
**Biển Đức III** hoặc **Bênêđictô III** (Latinh: _Benedictus III_) là vị giáo hoàng thứ 104 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 856
**Biển Đức V** hoặc **Bênêđictô V** (Latinh: _Benedictus V_) là giáo hoàng thứ 131 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 964, là
**Giao hoàng Biển Đức VI** (Tiếng La Tinh: _Benedictus VI_) là vị giáo hoàng thứ 134 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng
**Biển Đức XII** (Latinh: **Benedictus II**) là vị Giáo hoàng thứ 197 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1334 và ở ngôi
phải|nhỏ|240x240px| Góc của ba Hoàng đế hôm nay: Trước năm 1918, bên trái của cảnh này là người Đức, người Nga trung và bên phải người Áo-Hung **Three Emperors' Corner** (Góc của ba Hoàng đế)
**Biển Đức VIII** (Latinh: **Benedictus VIII**) là vị giáo hoàng thứ 143 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 1012 và ở
**Biển Đức II** hoặc **Bênêđictô II** (Latinh: _Benedictus II_) là vị giáo hoàng thứ 81 của Giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Theo niên
nhỏ|Đồng solidus của Constantinus khoảng 407–408 đúc tại Lyon, với mặt sau là hình Constantinus cầm trên tay quân kỳ hoàng đế (Labarum) và quả cầu chiến thắng đang giẫm trên người một nô lệ
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
Đế kỳ [[Nhà Hohenzollern|Hohenzollern.]] **Đế quốc Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Reich_), hay **Đế chế thứ hai** hay **Đệ nhị Đế chế** () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau
**Tấn Cung Đế** () (386–421), tên thật là **Tư Mã Đức Văn** (司馬德文) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Đông Tấn và là Hoàng đế cuối cùng của triều đại Nhà Tấn trong
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
nhỏ|phải|alt=Political map of central Europe showing the 26 areas that became part of the united German Empire in 1891. Germany based in the northeast, dominates in size, occupying about 40% of the new empire.|Bản đồ
thumb|Huy hiệu của [[Joseph II của Thánh chế La Mã|Joseph II, vị _Quốc vương của người La Mã_ cuối cùng được biết đến.]] **Vua của người La Mã** (), hay **Vua La Mã Đức** (),