✨Hoàng đế Áo

Hoàng đế Áo

nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. Hoàng đế Áo, đôi khi còn gọi là Áo hoàng (tiếng Đức: Kaiser von Österreich) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là tước vị được Hoàng đế La Mã Thần thánh Franz II, một thành viên của Nhà Habsburg-Lothringen tự xưng vào năm 1804, và tiếp tục được ông và những người kế tục ông nắm giữ cho đến khi vị Hoàng đế cuối cùng vào năm 1918. Các Hoàng đế kiêm nhiệm danh hiệu Đại vương công Áo. Vợ của các Hoàng đế xưng làm Hoàng hậu, trong khi các thành viên trong gia đình lấy tước hiệu Đại vương công hoặc là Đại Công nương.

Tuy đế hiệu của các Hoàng đế Áo là Kaiser, nhiều tài liệu tiếng Anh gọi họ là Emperor trong khi để nguyên tước hiệu của các Hoàng đế Đức là Kaiser, để tránh nhầm lẫn giữa các vị quân chủ Áo và Đức.

Tiền vị

Các thành viên của Vương triều nhà Habsburg tại Áo đã được bầu làm Hoàng đế La Mã Thần thánh qua nhiều thế kỷ và chủ yếu là ngự trị tại Viên. Đó là lý do vì sao thuật ngữ "Hoàng đế Áo" có thể xuất hiện trong các tư liệu viết về thời kỳ trước năm 1804, lúc không có Đế quốc Áo nào tồn tại. Trong các trường hợp đó từ "Áo" luôn mang nghĩa là Triều đại, chứ không phải là quốc gia. Một trường hợp đặc biệt là Đại Công nương Maria Theresia của Áo; bà là Hoàng hậu của Hoàng đế La Mã Thần thánh Franz II, nhưng thực ra bà cũng là vị quân chủ của Các Lãnh địa Thế tục Áo bao gồm Böhmen và Hungary.

Hoàng đế

Khi đối mặt với sự xâm lược của Napoleon I, người đã tuyên bố là "Hoàng đế Pháp" (), bởi Hiến pháp Pháp ngày 18 tháng 5 năm 1804, Francis II lo sợ cho tương lai của Đế quốc La Mã Thần thánh và duy trì tình trạng Hoàng gia của mình trong trường hợp Đế quốc La Mã Thánh bị giải thể. Do đó, vào ngày 11 tháng 8 năm 1804, ông đã tạo ra tước hiệu mới của "Hoàng đế Áo" cho chính mình và những người kế vị của ông là người đứng đầu Nhà Habsburg-Lorraine. Trong hai năm, Francis mang hai danh hiệu hoàng gia: Hoàng đế La Mã Thần thánh Francis II và "bằng ân điển Thiên chúa" (Von Gottes Gnaden) Hoàng đế Francis I của Áo.

Vào năm 1805, một đội quân do Áo dẫn đầu đã bị thất bại nhục nhã trong Trận Austerlitz và Napoléon chiến thắng đã giải tán Reich (lúc này chỉ là một liên minh lỏng lẻo) bằng cách thúc đẩy hoặc gây áp lực cho một số vương hầu Đức vào Liên bang Rhein vào tháng 7. Điều này khiến Francis II/I ngày 6 tháng 8 năm 1806 tuyên bố giải thể Reich và hạ Đế miện được tạo trong thế kỷ thứ X (ngày nay được trưng bày tại Bảo tàng Cung điện Hofburg ở Vienna).

Từ năm 1806 trở đi, Francis chỉ là Hoàng đế Áo.Ông có ba người kế nhiệm Ferdinand I, Francis Joseph I và Charles I trước khi Đế chế tan rã vào năm 1918. Một buổi lễ đăng quang không bao giờ được lập; người thừa kế ngai vàng trở thành hoàng đế vào thời điểm vua tiền nhiệm qua đời hoặc thoái vị. Biểu tượng của Hoàng đế Áo là vương miện riêng của triều đại có niên đại từ Rudolf II (r. 1576–1612), (được gọi Rudolfinische Hauskrone), là sự kế thừa phẩm giá và huyền thoại của Habsburgs.

Tước hiệu Hoàng đế

Các hoàng đế Áo đã có danh sách dài tước hiệu và tuyên bố phản ánh sự mở rộng địa lý và sự đa dạng của các vùng đất được cai trị bởi Habsburgs Áo. Danh hiệu tước hiệu lớn của Hoàng đế Áo được thay đổi nhiều lần: tạo lập ngày 1/8/1804, được triều đình tuyên bố ngày 22/8/1836, bởi triều đình Đế chế tuyên bố ngày 6/1/1867 và kết thúc bởi lá thư ngày 12/12/1867. Các phiên bản ngắn hơn được ghi trong các tài liệu chính thức và điều ước quốc tế: "Hoàng đế Áo, Vua Bohemia... và Vua Tông đồ Hungary", "Hoàng đế Áo và Vua Tông đồ Hungary", "Hoàng đế và Vua bệ hạ" và "Hoàng đế và Hoàng gia bệ hạ Tông đồ bệ hạ".

Danh sách đầy đủ (sau khi mất Lombardy năm 1859 và Venetia năm 1866):

Hoàng đế của Áo,
Vua Tông đồ của Hungary,
Vua của Bohemia, của Dalmatia, của Croatia, của Slavonia, của Galicia, của Lodomeria, của Illyria,
Vua của Jerusalem,
Đại vương công của Áo,
Đại công tước của Tuscany và Cracow,
Công tước của Lorraine, của Salzburg, của Styria, của Carinthia,của Carniola của Bukovina,
Đại thân vương của Transylvania,
Bá tước của Moravia,
Công tước của Thượng và Hạ Silesia, của Modena, Parma, Piacenza và Guastalla, của Auschwitz và Zator, của Teschen, Friuli, Ragusa và Zara,
Hoàng bá của Habsburg và Tyrol, của Kyburg, Gorizia và Gradisca,
Hoàng thân của Trent và Brixen,
Bá tước Thượng và Hạ Lusatia và Istria,
Bá tước của Hohenems, Feldkirch, Bregenz, Sonnenberg,
Lãnh chúa của Trieste, của Cattaro và của Windic March,
Đại Voivode của Voivodship Serbia,
Huân chương Lông cừu vàng Tối cao.

Hoàng đế Áo (1804–1918)

Kế vị

Trưởng tộc Habsburg-Lothringen (từ 1918)

Charles I không còn là vua của Áo, trong khi Luật Habsburg của nước Cộng hòa Áo năm 1919 gọi ông là "cựu hoàng" (der ehemalige Träger der Krone). Con trai ông, Otto von Habsburg, đã sử dụng tước hiệu Đại vương công Áo bên ngoài Áo, tuyên bố mình là một công dân trung thành với Cộng hòa Áo để được phép vào Áo; từ năm 1961 trở đi ông không truyền tước hiệu cho thân vương kế vị nữa. Con trai của Otto, Karl von Habsburg, kế vị Đại vương công Áo.

  • Charles I (11/11/1918 – 1/4/1922)
  • Otto von Habsburg (1/4/1922 – 1/1/2007)
  • Karl von Habsburg (1/1/2007 – nay) ** kế vị: Ferdinand Zvonimir von Habsburg
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. **Hoàng đế Áo**, đôi khi còn gọi là **Áo hoàng** (tiếng Đức: **_Kaiser von Österreich_**) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là
**Hoàng đế Đức**, đôi khi cũng gọi là **Đức hoàng** (tiếng Đức: **_Deutscher Kaiser_**) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức -
**Franz Joseph I Karl của Áo** - tiếng Đức, **I. Ferenc Jozséf** theo tiếng Hungary, còn viết là **Franz Josef I** (18 tháng 8 năm 1830 - 21 tháng 11 năm 1916) của nhà Habsburg
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Karl I của Áo** (1887 – 1922) (**Karl IV của Hungary, Croatia**; **Karl III của Bohemia**) là vị hoàng đế cuối cùng đế quốc Áo-Hung và họ Habsburg, lên ngôi từ ngày 21 tháng 11
**Hoàng đế và Quốc vương bệ hạ** (_Imperial and Royal Majesty_, viết tắt là HI&RM) là tước hiệu sử dụng bởi Hoàng đế kiêm Quốc vương và các phối ngẫu của họ với tư cách
**Hoàng Đế** (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là **Hiên Viên Hoàng Đế** (軒轅黃帝), là một vị quân chủ huyền thoại và là anh hùng văn hoá của
**Hoàng đế của Toàn Nga** hoặc **Sa hoàng Nga** (tiếng Nga: (cải cách năm 1918) Императоръ Всероссійскій, Императрица Всероссійская, (chính tả hiện đại) Император Всероссийский, Императрица всероссийская, _Imperator Vserossiyskiy_, _Imperatritsa Vserossiyskaya_) là hoàng đế chuyên
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
**Adelheid của Áo** (3 tháng 1 năm 1914 – 2 tháng 10 năm 1971) là một Nữ Đại vương công Áo, con gái của Karl I của Áo và Zita của Borboné-Parma. ## Tiểu sử
: **Franz Ferdinand** (18 tháng 12 năm 1863 – 28 tháng 6 năm 1914) là Người thừa kế lâm thời của Áo-Hung, Hoàng điệt của Đế quốc Áo và Vương điệt Vương thất Hungary và
phải|nhỏ|240x240px| Góc của ba Hoàng đế hôm nay: Trước năm 1918, bên trái của cảnh này là người Đức, người Nga trung và bên phải người Áo-Hung **Three Emperors' Corner** (Góc của ba Hoàng đế)
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
"**Bộ quần áo mới của hoàng đế**" () là một truyện ngắn của nhà văn Hans Christian Andersen về việc hai người thợ dệt hứa với vị hoàng đế là sẽ dệt cho ông một
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Rudolf của Áo** (_Rudolf Franz Karl Josef_; 21 tháng 8 năm 1858 – 30 tháng 1 năm 1889) là người con thứ ba và là con trai duy nhất của Hoàng đế Franz Joseph I
**Tổng thống Áo** () là nguyên thủ quốc gia của Áo. Chức vụ tổng thống được Quốc hội lập hiến Áo thành lập vào năm 1920 sau khi Đế quốc Áo-Hung và chế độ quân
thumb|Một chiếc mũ (_coronet_) của Đại công tước Áo. **Đại vương công Áo** (tiếng Đức: _Erzherzog_, dạng nữ: _Erzherzogin_), nhiều tài liệu còn dịch là **Đại công tước Áo**, là tước hiệu có từ năm
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Thánh Piô X, Giáo hoàng** (Tiếng Latinh: _Sancte Pie X_) (2 tháng 6 năm 1835 – 20 tháng 8 năm 1914), tên khai sinh: **Melchiorre Giuseppe Sarto** là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Marie Valerie của Áo** (tiếng Đức: _Marie Valerie von Österreich_; 22 tháng 4 năm 1868 – 6 tháng 9 năm 1924) là con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ
**Maximilian Franz của Áo**, (tên đầy đủ tiếng Đức là _Maximilian Franz Xaver Joseph Johann Anton de Paula Wenzel von Österreich_; 8 tháng 12 năm 1756 – 27 tháng 7 năm 1801), là Tuyển hầu
**Karl Joseph Emanuel của Áo** (tên đầy đủ tiếng Đức là _Carl Josef Emanuel Johann Nepomuk Anton Prokop von Österreich_; 1 tháng 2 năm 1745 – 18 tháng 1 năm 1761), là đứa con thứ
**Ferdinand I** (19 tháng 4 năm 1793 – 29 tháng 6 name 1875) là Hoàng đế của Áo từ tháng 3/1835 cho đến khi thoái vị vào tháng 12/1848, đồng thời ông cũng là Chủ
**Maria Elisabeth của Áo** (Maria Elisabeth Josepha Johanna Antonia; sinh ngày 13 tháng 8 năm 1743 - mất 22 tháng 9 năm 1808) là con thứ sáu và con gái thứ ba còn sống đến
**Gisela của Áo** (tiếng Đức: _Gisela von Österreich_; 12 tháng 7 năm 1856 – 27 tháng 7 năm 1932) là con gái của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern và là Vương
**Sophie Friederike của Áo** (tiếng Đức: Sophie Friederike von Österreich; 5 tháng 3 năm 185529 tháng 5 năm 1857) là con đầu lòng của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. ## Tiểu
Dưới đây là danh sách các hôn phối hoàng gia Áo kể từ khi nước này được thành lập với vai trờ là một Phiên biên trấn của đế quốc La Mã Thần thánh vào
**Anna của Áo** (, ; 2 tháng 11 năm 1549 – 26 tháng 10 năm 1580), là Nữ Đại vương công Áo, sau thành Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ
**Franz Karl Joseph của Áo** (17 tháng 12 năm 1802 - 8 tháng 3 năm 1878) là thành viên của Vương tộc Habsburg-Lothringen. Ông là cha của hai hoàng đế: Franz Joseph I của Áo
**Nữ Đại vương công Maria Anna của Áo** (Maria Anna Josepha Antonia; 6 tháng 10 năm 1738 - 19 tháng 11 năm 1789) là con thứ hai của Francis I và Maria Theresia. Vì là
**Ferdiand Karl của Áo, Đại vương công Áo-Este** (_Ferdinand Karl Anton Joseph Johann Stanislaus_; 1 tháng 6 năm 1754 - 24 tháng 12 năm 1806) là con trai của Hoàng đế La Mã Thần thánh
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Maria Amalia của Áo** (Maria Amalia Josepha Johanna Antonia; 26 tháng 2 năm 1746 - 18 tháng 6 năm 1804) là Nữ công tước của Parma, Piacenza và Guastalla sau khi kết hôn. Maria Amalia
**Dona Maria Leopoldine của Áo** (22 tháng 1 năm 1797 – 11 tháng 12 năm 1826) là Hoàng hậu đầu tiên của Đế quốc Brasil với tư cách là vợ của Hoàng đế Dom Pedro
**Maria Antonia Josepha của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia Josepha von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Josefa de Austria_; tiếng Anh: _Maria Antonia Josepha of Austria_; 18 tháng 1 năm 1669 – 24
**Đại công tước Karl Ludwig Josef Maria của Áo** (30 tháng 7 năm 1833 – 19 tháng 5 năm 1896) là em trai của cả Hoàng đế Franz Joseph I của Áo và Hoàng đế
**Maria Karolina Ernestina của Áo** (_Maria Karolina Ernestina Antonia Johanna Josefa_; 12 tháng 1 năm 1740 – 25 tháng 1 năm 1741) là người con thứ ba của Maria Theresia I của Áo, Hoàng hậu
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Maria Elisabeth của Áo** (Tên đầy đủ (tiếng Đức): _Maria Elisabeth Amalia Antonia Josefa Gabriele Johanna Agedit_; 5 tháng 2 năm 1737 - 7 tháng 6 năm 1740), là con cả và con gái của