Hoàng Đế (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế (軒轅黃帝), là một vị quân chủ huyền thoại và là anh hùng văn hoá của Văn minh Trung Hoa, được coi là thủy tổ của mọi người Hán. Chữ Hoàng (黃) ở đây hàm nghĩa sắc vàng, là màu biểu trưng cho hành Thổ. Hiểu nôm na "Hoàng Đế" là "Vua Vàng", khác với Hoàng (皇) trong Hoàng đế, là danh xưng của các quân chủ kể từ thời nhà Tần (xem bài Tần Thủy Hoàng).
Hoàng Đế thường được coi là một trong Tam Hoàng hoặc Ngũ Đế. Theo huyền sử Trung Quốc, ông trị vì trong khoảng 2698 TCN đến 2599 TCN và là người sáng lập ra nền văn minh Trung Quốc. Theo truyền thuyết, việc ông rút về phía tây tại trận Trác Lộc (涿鹿) đánh thủ lĩnh Xi Vưu là cái mốc hình thành người Hán.
Nguồn gốc tên gọi
Trước khi Tần Thủy Hoàng lập ra danh hiệu Hoàng đế, thì từ Đế thời kì này dùng để chỉ Thượng đế trong tín ngưỡng nhà Thương. Vào thời Chiến Quốc, danh từ Đế dùng để chỉ các vị thần của những ngọn núi thiêng, trong đó Hoàng Đế (ý nói Vua Vàng) chính là một trong số đó.
Cuối thời Chiến Quốc, Hoàng Đế dần mang tính vũ trụ học của học thuyết ngũ hành, và màu vàng tượng trưng cho thuộc tính Thổ, cũng mang ý nghĩa trung tâm. Việc này cũng được đề cập trong Lã Thị Xuân Thu.
Căn cứ vào khảo cổ học, ghi chép sớm nhất về Hoàng Đế là dựa trên một Kim văn nước Tề thời Chiến Quốc. Trong Sử ký của Tư Mã Thiên, ông cũng đề cập đến việc nước Tần đã tôn thờ một tín ngưỡng Hoàng Đế cùng với Viêm Đế. Bàn thờ cúng đã được tìm thấy tại vùng ngày nay là quận Phượng Tường, Thiểm Tây nơi mà xa xưa từng là kinh đô của nước Tần.
Và cũng trong Sử ký, Tư Mã Thiên đã tổng hợp những thông tin rải rác về Hoàng Đế khi ấy và tổng hợp nên một nhân vật thần thoại và có các thành tựu như ta đã biết ngày nay. Chính những bước đầu tiên này, Sử ký đã có ảnh hưởng sâu rộng đến cái nhìn lịch sử Trung Quốc cổ đại không chỉ với người Trung Hoa mà còn đối với các nước đồng văn.
Thân thế
Hoàng Đế có họ là Công Tôn thị (公孫氏), do sống ở gò tên gọi Hiên Viên (軒轅) nên từ đó ông được gọi là Công Tôn Hiên Viên (公孫軒轅), là con của Thiếu Điển và con gái bộ tộc Hữu Kiểu là Phù Bửu (附寶). Mẹ ông đã nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu rớt vào mình mà thụ thai sinh ra ông.
Thuở nhỏ, ông rất thông minh, có tính thần linh, dáng vẻ ngoài rất kỳ dị, khi còn bọc trong tã đã biết nói, lớn lên cần cù hiểu biết sáng suốt, thường khuyên người đồng thời lo làm lành và tu ngũ đức, được bầu làm tù trưởng bộ lạc Hữu Hùng (有熊氏), vì vậy được gọi là Thiên hạ đệ nhất lăng (天下第一陵). Nhưng thực tế trong lăng chỉ có y quan chôn để tượng trưng mà thôi.
Có truyền thuyết kể rằng, sau khi Hoàng Đế băng hà, một đêm Rồng thiêng đáp xuống tẩm cung đón Hoàng Đế lên trời. Để đáp lại công lao của ông, ông được phong thần, trở thành Ngọc Hoàng.
Thành tựu
phải|Tượng Hoàng Đế ở viện bảo tàng Cố Cung, [[Cố Cung (Bắc Kinh)|Tử Cấm Thành, Bắc Kinh.]]
Thời Hoàng Đế có nhiều phát minh sáng tạo (trong truyền thuyết) của nhiều người nhưng được quy chung cho Hoàng Đế như làm nhà, đóng xe thuyền, may được quần áo ngũ sắc, chế kim chỉ nam, làm lịch, y thuật (Hoàng Đế nội kinh tương truyền là của Hoàng Đế và Kỳ Bá)
Theo truyền thuyết, Hoàng Đế có người vợ đầu tên là Luy Tổ, hay Loa Tổ (螺祖), là người đã dạy cho phụ nữ nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa.. Cuốn Hoàng Đế nội kinh (黄帝内經), một cuốn sách thuộc hàng kinh điển trong Đông y được đặt theo tên của ông. Ngoài ra, ông cũng được nhìn nhận đã viết ra Hoàng Đế tứ kinh (黄帝四經), Hoàng Đế âm phù kinh (黄帝陰符經).
Vào thế kỷ thứ II, vai trò thần thánh của Hoàng Đế dần mất đi bởi một hình ảnh đang nổi lên là Lão Tử. Dẫu vậy, hình tượng Hoàng Đế không hề mất đi với vai trò là một thần linh tối cao và biểu thị cho sự trường thọ.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Hoàng Đế** (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là **Hiên Viên Hoàng Đế** (軒轅黃帝), là một vị quân chủ huyền thoại và là anh hùng văn hoá của
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Hoàng đế Đức**, đôi khi cũng gọi là **Đức hoàng** (tiếng Đức: **_Deutscher Kaiser_**) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức -
nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. **Hoàng đế Áo**, đôi khi còn gọi là **Áo hoàng** (tiếng Đức: **_Kaiser von Österreich_**) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là
thumb|upright|[[Dawit II|Lebna Dengel, _nəgusä nägäst_ (hoàng đế) của Ethiopia và thành viên của Vương triều Solomon.]] **Hoàng đế Ethiopia** (, nəgusä nägäst, "Vua của các vị vua"), còn được gọi là **atse** (, "hoàng đế"),
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
**Hoàng đế của người Pháp** (), thường được gọi tắt là **Hoàng đế Pháp**, là chức vụ của người đứng đầu và nắm quyền lãnh đạo của Đệ nhất và Đệ Nhị Đế chế Pháp.
**Julianus** (,; 331/332 – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Hoàng đế La Mã** là danh hiệu mà giới sử học dùng để gọi những người cai trị La Mã trong thời đại đế chế. Về mặt từ nguyên, từ "hoàng đế" (tiếng Anh:Emperor, tiếng
alt=Painted image of a portly man sitting in a red throne-chair with dragon-head decorations, wearing white silk robes, black shoes, and a black hat, and sporting a black mustache and goatee|Chân dung [[Tống Thái Tổ
**Hoàng đế quân nhân** (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
Dưới đây là **danh sách các hoàng đế Đông La Mã**, bắt đầu từ khi thành phố Constantinopolis được thành lập vào năm 330 CN đến khi nó thất thủ vào tay Đế quốc Ottoman
**Hoàng đế của Toàn Nga** hoặc **Sa hoàng Nga** (tiếng Nga: (cải cách năm 1918) Императоръ Всероссійскій, Императрица Всероссійская, (chính tả hiện đại) Император Всероссийский, Императрица всероссийская, _Imperator Vserossiyskiy_, _Imperatritsa Vserossiyskaya_) là hoàng đế chuyên
**Theophilos** (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại
nhỏ|Mũ _Dực Thiện Quan_ đan từ sợi vàng của [[Minh Thần Tông|Vạn Lịch Đế, mô phỏng từ bản gốc khai quật từ Định lăng. Theo truyền thống nhà Minh, _Dực Thiện Quan_ màu vàng chỉ
**Leo I** () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
**Hoàng đế** hoặc **Nữ hoàng Ấn Độ**, là một danh hiệu được các quốc vương Anh sử dụng từ ngày 1 tháng 5 năm 1876 (theo Đạo luật Tước vị Hoàng gia 1876) đến ngày
**Publius Licinius Valerianus** (200-sau 260), tiếng Anh hiểu là **Valerian** là Hoàng đế La Mã từ năm 253 đến năm 260 cùng với Gallienus. Valerianus có xuất thân từ một gia đình quý tộc. Ông
**Leo II** (, Tiếng Hy Lạp cổ: _Λέων Β_, _Leōn II_; 467 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì chưa đầy một năm vào năm 474. Ông là con trai của Zeno
**Flavius Claudius Constantinus**, tiếng Anh hiểu là **Constantine II** là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã (trị vì:337-340). Constantinus II là con trai cả của Constantine Đại đế và hoàng hậu Fausta.
**Cá hoàng đế** là một số loài cá nước ngọt thuộc chi _Cichla_ có bản địa ở lưu vực sông Amazon ở Nam Mỹ. ## Tổng quan Đây là một loại cá thường sống ở
**Hoàng đế México** (Tây Ban Nha: **_Emperador de México_**) là người đứng đầu nhà nước và cai trị México trong hai lần không liên tiếp vào thế kỷ 19. Với Tuyên ngôn Độc lập của
**Họ Cá hoàng đế** hay **họ Cá rô phi** (danh pháp khoa học: **_Cichlidae_**) là một họ cá, theo truyền thống xếp trong bộ Perciformes. Tuy nhiên, gần đây người ta chuyển họ này sang
Dưới đây là danh sách các Hoàng đế Trung Quốc thời nhà Nguyên. ## Thế phả
**Họ Ngài hoàng đế** (tên khoa học: _Saturniidae_) là một họ ngài trong bộ Cánh vẩy, gồm khoảng 1.300 đến 1.500 loài đã được miêu tả trên toàn cầu. Một số tên khác của họ
Dưới đây là danh sách các vị **hoàng đế Latinh** của Constantinopolis ## Danh sách
**Bộ Cá hoàng đế** (danh pháp khoa học: **_Cichliformes_**) là một bộ cá, trước đây phân loại trong bộ Perciformes nhưng hiện nay nhiều tác giả coi nó là một bộ riêng biệt trong phạm
**Nhà thờ Hoàng đế Đức** () là một từ ngữ truyền thống để chỉ các nhà thờ lớn, mà có liên hệ đến quyền lực của hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh. ##
**Hoàng đế và Quốc vương bệ hạ** (_Imperial and Royal Majesty_, viết tắt là HI&RM) là tước hiệu sử dụng bởi Hoàng đế kiêm Quốc vương và các phối ngẫu của họ với tư cách
nhỏ|Đồng solidus của Constantinus khoảng 407–408 đúc tại Lyon, với mặt sau là hình Constantinus cầm trên tay quân kỳ hoàng đế (Labarum) và quả cầu chiến thắng đang giẫm trên người một nô lệ
**_Hoàng đế cuối cùng_** (tiếng Anh: **_The Last Emperor_**) là bộ phim tiểu sử về cuộc đời của Phổ Nghi, vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, đạo diễn bởi Bernardo Bertolucci và phát
phải|nhỏ|240x240px| Góc của ba Hoàng đế hôm nay: Trước năm 1918, bên trái của cảnh này là người Đức, người Nga trung và bên phải người Áo-Hung **Three Emperors' Corner** (Góc của ba Hoàng đế)
**Cận vệ của Hoàng đế La Mã** (Latinh: _Praetoriani_) là lực lượng cận vệ được sử dụng bởi các Hoàng đế La Mã, khởi đầu từ Augustus (27 TCN - 14 CN) và bị giải
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**_Hoàng đế Porus_** là một bộ phim truyền hình chính kịch lịch sử dựa trên _Battle of the Hydaspes_, nói về hành trình của chiến binh Porus vua của Vương quốc Paurava và Alexander Đại
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như