✨Theophilos (hoàng đế)

Theophilos (hoàng đế)

Theophilos (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Amoria và là vị hoàng đế cuối cùng ủng hộ bài trừ thánh tượng. Đích thân Theophilos ngự giá thân chinh thảo phạt người Ả Rập trong suốt phần đời còn lại của mình bắt đầu từ năm 831.

Tiểu sử

Thiếu thời

thumb|left|Theophilos trên một đồng tiền xu của phụ hoàng [[Mikhael II, người sáng lập triều đại Phrygia.]] Theophilos là con trai của Hoàng đế Mikhael II và Hoàng hậu Thekla, và là con đỡ đầu của Hoàng đế Leon V gốc Armenia. Mikhael II đã phong cho Theophilos làm đồng hoàng đế vào năm 822, ngay sau khi ông lên ngôi. Không giống như phụ hoàng, Theophilos từ thuở nhỏ đã được thừa hưởng một nền giáo dục sâu rộng từ nhà văn phạm học Ioannes Hylilas, và cũng là một người cực kỳ ngưỡng mộ âm nhạc và nghệ thuật.

Theophilos vẫn tiếp tục phong trào bài trừ thánh tượng từ các tiên đế, dù không có giọng điệu hòa giải hơn phụ hoàng, mà sang năm tới mới thực hiện được, nhất là từ sau cái chết của Al-Ma'mun.

Trong khoảng thời gian đình chiến với nhà Abbasid, Theophilos đã dự trù việc bắt cóc những tù nhân Đông La Mã được vua Krum xứ Bulgaria đưa tới định cư ở phía bắc sông Danube. Hoạt động giải cứu được tiến hành với sự thành công vào khoảng năm 836, và nền hòa bình giữa Bulgaria và Đế quốc Đông La Mã đã mau chóng phục hồi. Tuy vậy, Đông La Mã khó mà duy trì hòa bình ở miền Đông. Dù Theophilos có cung cấp nơi ăn chốn ở cho những người tị nạn từ miền đông vào năm 834, bao gồm cả Nasr, một người Ba Tư. Hoàng đế còn làm lễ rửa tội cho Theophobos, đã kết hôn với người dì của Hoàng đế là Irene và trở thành một trong những tướng lĩnh của ông. Khi quan hệ với nhà Abbasid dần xấu đi, Theophilos đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới.

thumb|left|[[Follis kiểu mới, được đúc với số lượng lớn trong lễ kỷ niệm chiến thắng của Theophilos trong cuộc chiến với người Ả Rập từ khoảng năm 835. Trên bề mặt đồng xu ông được miêu tả trong trang phục khải hoàn, đang mặc bộ toupha, và mặt bên kia là những lời tung hô theo truyền thống "Theophilos Augustus, nhà chinh phục".]] Năm 837 Theophilos tự mình dẫn một đạo quân lớn lên tới 70.000 người tiến về phía Lưỡng Hà và chiếm được Melitene và Arsamosata. Hoàng đế cũng chiếm và phá hủy Zapetra (Zibatra, Sozopetra), mà một số nguồn tài liệu cho đó là nơi sinh của khalip al-Mu'tasim. Theophilos ca khúc khải hoàn trở về Constantinopolis. Vì muốn chóng báo thù, Al-Mu'tasim liền tập hợp một đội quân lớn và phát động một cuộc xâm lược chia làm hai mũi nhọn vào Anatolia năm 838. Theophilos quyết định tấn công một bộ phận của quân đội khalip trước khi họ có thể hợp lại. Ngày 21 tháng 7 năm 838, trong trận Anzen ở Dazimon, đích thân Theophilos thống lĩnh một đạo quân Đông La Mã gồm 25.000 đến 40.000 người giao tranh với quân đội dưới quyền chỉ huy của al-Afshin. Afshin trụ vững trước những đợt tấn công của quân Đông La Mã, đã hạ lệnh phản công và giành lấy thắng lợi. Tàn quân Đông La Mã rút lui trong hỗn loạn và không dám ngăn cản vào chiến dịch tiếp theo của khalip.

Al-Mu'tasim chiếm được Ancyra, và al-Afshin gia nhập vào đoàn quân của ông. Toàn bộ quân đội Abbasid trước tiên tiến đánh Amorium, nơi phát tích của triều đại. Ban đầu quân Ả Rập vấp phải phản kháng quyết liệt. Rồi sau một tên tù binh Hồi giáo trốn thoát và chạy tới báo cho khalip chỗ tường thành chỉ có một lớp phía trước. Al-Mu'tasim liền tập trung hỏa lực bắn phá dữ dội khiến một đoạn tường thành bị vỡ tan tạo cơ hội cho quân Ả Rập tràn vào. Dù lực lượng thủ thành đã anh dũng cầm cự trong năm mươi lăm ngày rốt cuộc thành phố cũng rơi vào tay al-Mu'tasim vào ngày 12 hoặc 15 tháng 8 năm 838.

Năm 838, nhằm gây ấn tượng với Khalip ở Baghdad, Theophilos đã cử Thượng phụ Đại kết thành Constantinopolis là Ioannes Grammatikos tới phân phát 36.000 đồng nomismata cho cư dân thành Baghdad tiêu xài thoải mái. Khoảng năm 841, nước Cộng hòa Venezia đã phái một hạm đội 60 tàu galley (mỗi chiếc chở được 200 người) để trợ giúp quân Đông La Mã đánh đuổi người Ả Rập ra khỏi Crotone, nhưng không thành công.

Trong chiến dịch này Al-Mu'tasim tình cờ phát hiện ra rằng một số tướng lĩnh hàng đầu của ông có ý đồ phản nghịch. Nhiều người trong số tướng lĩnh hàng đầu đã bị bắt giữ và một số bị xử tử ngay trước khi ông trở về. Al-Afshin xem ra chẳng có dính líu gì trong việc này, nhưng những mưu tính khác của ông lại bị phát giác để đến nỗi phải chết trong tù vào mùa xuân năm 841. Khalip al-Mu'tasim ngã bệnh vào tháng 10 năm 841 và qua đời vào ngày 5 tháng 1 năm 842, kết thúc cuộc chiến tranh khốc liệt giữa Đông La Mã và nhà Abbasid.

Quan hệ với Bulgaria và Serbia

thumb|Hình ảnh của Theophilos trên một đồng xu vàng [[solidus (tiền xu)|solidus.]] Năm 836, từ sau khi mãn hạn hòa ước 20 năm giữa Đế quốc Đông La Mã và Bulgaria, Theophilos đã xua quân tàn phá vùng biên giới Bulgaria. Người Bulgaria bèn trả đũa lại, và dưới sự lãnh đạo của Isbul họ đã tiến quân tới gần Adrianopolis. Vào lúc này, nếu không phải trước đó, người Bulgaria đã sáp nhập Philippopolis (Plovdiv) và các vùng lân cận. Khan Malamir lâm trọng bệnh qua đời vào năm 836. và Serbia được Theophilos ban cho độc lập; đổi lại Vlastimir phải thừa nhận cương vị chúa tể trên danh nghĩa của Hoàng đế. Người ta cho rằng chính sự mở rộng nhanh chóng của người Bulgar lên lãnh thổ Slav đã thúc đẩy người Serb hợp nhất thành một quốc gia.

Khan Presian I (trị vì 836–852) đột nhiên kéo quân xâm chiếm lãnh thổ Serbia vào năm 839 dẫn đến cuộc chiến tranh kéo dài ba năm giữa hai dân tộc Bulgaria và Serbia. Kết cuộc là Vlastimir xứ Serbia đã giành chiến thắng và Presian đại bại hoàn toàn, chẳng những không chiếm được đất đai nào cả mà đại quân còn bị tổn thất nghiêm trọng. Sở dĩ người Serb đại thắng là vì biết tận dụng lợi thế chiến thuật tại các ngọn đồi, vậy nên quân đội của Vlastimír mới có thể đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Cái chết và di sản

Thể trạng của Theophilos ngày càng yếu dần và ông qua đời lặng lẽ vào ngày 20 tháng 1 năm 842. Theophilos đã cho gia cố các bức tường thành của Constantinopolis và xây dựng một bệnh viện vẫn tiếp tục tồn tại cho đến buổi hoàng hôn của Đế quốc Đông La Mã.

Gia đình

thumb|Solidus khắc họa Theophilos, với phụ hoàng Mikhael II và trưởng nam Konstantinos ở mặt trái. Theophilos có với hoàng hậu Theodora bảy đứa con:

  • Konstantinos, đồng hoàng đế từ khoảng năm 833 cho tới khi mất vào khoảng năm 835.
  • Mikhael III, kế vị làm hoàng đế.
  • Maria, gả cho Caesar Alexios Mousele.
  • Thekla, từng là tình nhân của hoàng đế Basileios I gốc Makedonia.
  • Anna
  • Anastasia
  • Pulcheria
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Theophilos** (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Mikhael III** (, _Mikhaēl III_; 19 tháng 1, 840 – 23/24 tháng 9, 867) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 842 đến 867. Mikhael III là thành viên thứ ba và cuối cùng
**Konstantinos XI Palaiologos**, Latinh hóa là **Palaeologus** ( (Serbia: _Константин Палеолог Драгаш_), _Kōnstantinos XI Dragasēs Palaiologos_; 1404 - 1453) là vị Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Byzantine (đôi lúc còn được xem là
thumb|Theodora được miêu tả như một vị thánh, trong một biểu tượng tôn giáo của [[Hy Lạp vào thế kỷ 19.]] **Theodora** (, khoảng 815 – sau 867) là Hoàng hậu Đông La Mã và
**Theophilos** (Tiếng Hy Lạp: ) là một vị vua Ấn-Hy Lạp nhỏ cai trị trong một thời gian ngắn ở Paropamisadae. Ông đã có thể là một người họ hàng của Zoilos I và chỉ
**Thema Cherson** (, _thema Chersōnos_), ban đầu và chính thức gọi là **Klimata** (tiếng Hy Lạp: ), là một thema của Đế quốc Byzantine (tỉnh quân sự-dân sự) nằm tại miền nam Krym, trụ sở
**Panodorus thành Alexandria** (; ? – ?) là một tu sĩ, sử gia và nhà văn Đông La Mã gốc Ai Cập, sống vào khoảng thế kỷ 5. Ông trải qua phần lớn đời mình
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Yemen** (; ), quốc hiệu là **Cộng hòa Yemen** () là một quốc gia nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía nam bán đảo Ả Rập. Yemen là quốc gia lớn thứ hai trên
**Agathokleia Theotropos** (Tiếng Hy Lạp: , Theotropa có nghĩa là "Giống như Nữ thần") là một nữ hoàng của vương quốc Ấn-Hy Lạp, bà cai trị các vùng đất nằm ở miền bắc Ấn Độ
**Người Viking** là tên gọi dùng để chỉ những nhà thám hiểm, thương nhân, chiến binh, hải tặc đến từ bán đảo Scandinavia (lãnh thổ các nước Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, từ cuối
**Strato I** (tiếng Hy Lạp: Στράτων Α), là một vị vua của vương quốc Ấn-Hy Lạp, con trai của nữ hoàng Agathokleia, người có lẽ đã giữ vai trò nhiếp chính cho ông trong những