✨Klemens von Metternich

Klemens von Metternich

Klemens Wenzel Lothar von Metternich (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là Klemens von Metternich hoặc Vương công Metternich, là một chính khách và nhà ngoại giao bảo thủ người Đức, phục vụ cho Đế quốc La Mã Thần thánh và sau là cho Đế quốc Áo. Matternich giữ vai trò giúp cân bằng cán cân quyền lực của các cường quốc châu Âu và được xem là nhạc trưởng của nền chính trị châu lục này trong 3 thập kỷ với vai trò Bộ trưởng ngoại giao của Đế quốc Áo từ năm 1809 và Tể tướng đại thần (Thủ tướng) từ năm 1821 cho đến khi Cách mạng Tự do 1848 buộc ông phải từ chức.

Ông là thành viên của Nhà Metternich với tư cách là con trai của một nhà ngoại giao, Metternich được học hành tử tế tại các trường Đại học Strasbourg và Mainz. Metternich đã thăng tiến nhờ các chức vụ ngoại giao quan trọng, bao gồm vai trò đại sứ tại Vương quốc Sachsen, Vương quốc Phổ, và đặc biệt là nước Pháp thời Napoléon. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của ông với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao là thiết kế một hiệp ước với Pháp, bao gồm cuộc hôn nhân của Napoléon với Nữ đại công tước Áo Marie Louise. Ngay sau đó, ông đã dàn dựng việc Áo tham gia Chiến tranh Liên minh thứ Sáu theo phe Đồng minh, ký Hiệp ước Fontainebleau đưa Napoléon đi lưu vong và dẫn đầu phái đoàn Áo tại Đại hội Viên phân chia châu Âu thời hậu Napoléon giữa các cường quốc. Vì sự phục vụ tận tuỵ của mình cho quyền lợi của Đế chế Áo, Metternich được phong tước hiệu Fürst (Vương công) vào tháng 10 năm 1813. Dưới sự hướng dẫn của ông, "hệ thống Metternich" của các hội nghị quốc tế tiếp tục tồn tài trong một thập kỷ nữa khi Áo liên kết với Đế quốc Nga và ở một mức độ thấp hơn là Vương quốc Phổ. Điều này đánh dấu đỉnh cao về tầm quan trọng ngoại giao của Áo và sau đó Metternich dần dần trượt vào vùng ngoại vi của ngoại giao quốc tế. Ở quê nhà, Metternich giữ chức vụ Tể tướng đại thần, đứng đầu chính phủ của Đế chế từ năm 1821 đến năm 1848 dưới thời cả Hoàng đế Franz I và con trai của ông là Ferdinand I. Sau một thời gian ngắn sống lưu vong ở London, Brighton và Brussels, kéo dài cho đến năm 1851, ông trở lại triều đình Viên, ông đã đưa ra những lời khuyên cho người kế vị của Ferdinand là Hoàng đế Franz Joseph I. Metternich đã sống thọ hơn bất kỳ chính trị gia nào khác cùng thời với mình, ông qua đời vào năm 1859 ở tuổi 86.

Là một người bảo thủ truyền thống, Metternich rất muốn duy trì sự cân bằng quyền lực, đặc biệt là bằng cách chống lại tham vọng lãnh thổ của Đế chế Nga ở Trung Âu và Đế chế Ottoman ở vùng Cận Đông. Chẳng hạn, ông không thích chủ nghĩa tự do và cố gắng ngăn chặn sự tan rã của Đế chế Áo bằng cách dập tắt các cuộc nổi dậy của những người theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Bắc Bán đảo Ý thuộc Áo. Ở quê nhà, ông theo đuổi một chính sách tương tự, sử dụng cơ chế kiểm duyệt và mạng lưới gián điệp rộng khắp để trấn áp tình trạng bất ổn. Metternich vừa được khen ngợi vừa bị chỉ trích nặng nề vì những chính sách mà ông theo đuổi. Những người ủng hộ ông chỉ ra rằng ông chủ trì "hệ thống Áo" khi ngoại giao quốc tế giúp ngăn chặn các cuộc chiến tranh lớn ở châu Âu. Những phẩm chất ông ấy với tư cách là một nhà ngoại giao đã được khen ngợi, một số nhà sử học đã lưu ý rằng chính những kỹ năng khôn khéo và dứt khoát đã tạo ra một địa vị đáng nể cho Đế chế Áo. Trong khi đó, những người gièm pha lập luận rằng lẽ ra ông có thể làm được nhiều điều để đảm bảo tương lai của Áo, và ông bị coi là vật cản đối với các cải cách ở Áo. Metternich cũng là một người ủng hộ nghệ thuật, đặc biệt quan tâm đến âm nhạc; ông quan tâm đến một số nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất ở châu Âu vào thời điểm đó bao gồm Haydn, Beethoven, Rossini, Liszt và Strauss.

Cuộc sống đầu đời

thumb|right|[[Lâu đài Kynžvart ở Bohemia]] Klemens Metternich được sinh ra vào ngày 15 tháng 5 năm 1773, trong Gia tộc Metternich, một gia đình quý tộc lâu đời ở vùng Rhenish. Cha của ông là Franz Georg Karl, Bá tước xứ Metternich-Winneburg zu Beilstein (1746–1818), một nhà ngoại giao đã chuyển từ phục vụ tại Tổng giáo phận vương quyền Trier sang phục vụ cho triều đình đế chế, và mẹ ông là Maria Beatrix Aloisia, Nữ bá tước xứ Kageneck (1755-1828). Ông được đặt tên để vinh danh Tổng giám mục Clemens Wenzeslaus von Sachsen, Tuyển hầu xứ Trier và là chủ cũ của cha ông. Ông là con trai cả và có một chị gái Pauline (1772–1855), vợ của Công tước Ferdinand xứ Württemberg. Vào thời điểm ông sinh ra, gia đình Metternich sở hữu một pháo đài đổ nát ở Beilstein, một lâu đài ở Winneberg, một điền trang ở phía Tây Koblenz, và một điền trang khác ở Königswart, Bohemia, giành được trong thế kỷ XVII.

Vào mùa hè năm 1788, Metternich bắt đầu học luật tại Đại học Strasbourg, trúng tuyển vào ngày 12 tháng 11. Khi còn là sinh viên, ông đã được Vương công Maximilian xứ Zweibrücken, vị vua tương lai của Vương quốc Bayern, cho ở tại tư dinh trong một thời gian. Metternich rời Strasbourg vào tháng 9 năm 1790 để tham dự lễ đăng quang vào tháng 10 của Hoàng đế Leopold II tại Frankfurt, nơi ông giữ vai trò là Thống chế Nghi lễ cho Bá tước xứ Westphalia (một trong 4 ghế dự bị trong Đại hội Đế chế). Ở đó, dưới sự che chở của cha mình, Metternich đã gặp Hoàng đế Franz II tương lai. nhận được một nền giáo dục bảo thủ hơn ở Strasbourg, một thành phố không an toàn để quay lại. Vào mùa hè, anh ấy làm việc với cha mình, người đã được bổ nhiệm vào ghế Cai trị toàn quyền xứ Hà Lan thuộc Áo. Vào tháng 3 năm 1792, Francis kế vị vương miện Hoàng đế La Mã Thần thánh và lên ngôi vào tháng 7, cho phép Metternich tiếp tục đảm nhận vai trò Thống chế Nghi lễ trước đó của ông. Trong khi đó, Pháp đã tuyên chiến với Áo, bắt đầu Chiến tranh Liên minh thứ nhất (1792–7) và khiến việc nghiên cứu thêm của Metternich ở Mainz là không thể. Giờ đây, theo công việc của cha mình,

Cuộc hôn nhân đầu tiên và Đại hội Rastatt

thumb|right|Nữ bá tước Eleonore xứ Kaunitz-Rietberg (1775–1825), người vợ đầu tiên của Metternich Trong quá trình thực hiện công tác tại Vương quốc Anh, ông đã có cơ hội diện kiến Nhà vua nhiều lần và ăn tối với một số chính trị gia có ảnh hưởng của Anh lúc bầy giờ, bao gồm William Pitt, Charles James Fox và Edmund Burke. Metternich cũng đã ăn tối với nhà soạn nhạc nổi tiếng Joseph Haydn và ông bầu Johann Peter Salomon sau khi xem một số buổi hòa nhạc của họ tại Quảng trường Hannover. Chính tại một trong những buổi hòa nhạc này, ông ấy đã hội ngộ với một người thầy của mình trong quá khứ, Andreas Hofmann trong số khán giả đã đến để do thám nước Anh cho người Pháp. Metternich được đề cử làm Công sứ mới của Hà Lan thuộc Áo và rời Anh vào tháng 9 năm 1794. Khi đến nơi, ông thấy một chính phủ lưu vong và bất lực đang phải rút lui khỏi cuộc tiến công mới nhất của Pháp. Ngày 27 tháng 9 năm 1795, ông kết hôn với Nữ bá tước Eleonore von Kaunitz-Rietberg (1775-1825), cháu gái của cựu thủ tướng Áo Wenzel Anton, Thân vương xứ Kaunitz-Rietberg. Cuộc hôn nhân do mẹ của Metternich sắp đặt và giới thiệu anh với xã hội Viên. Đây chắc chắn là một phần động lực cho Metternich, người ít thể hiện tình cảm với cô hơn là cô dành cho ông. Cha của cô dâu, Hoàng thân Kaunitz, đưa ra hai điều kiện: thứ nhất, Eleonore vẫn còn trẻ nên phải tiếp tục sống ở nhà mình; và thứ hai, Metternich bị cấm phục vụ với tư cách là một nhà ngoại giao chừng nào Hoàng thân vẫn còn sống.

Sau khi Metternich học ở Vienna, cái chết của Hoàng thân vào tháng 9 năm 1797 đã cho phép Metternich tham gia Đại hội Rastatt.

Đại sứ

Dresden và Berlin

Thất bại của Đế chế La Mã Thần thánh trong Chiến tranh Liên minh thứ hai đã làm rung chuyển giới ngoại giao, và Metternich đầy triển vọng giờ đây được đưa ra lựa chọn giữa ba vị trí: Đại diện cho Hoàng gia trong Đại hội Đế chế tại Regensburg; làm đại sứ tại Copenhagen của Vương quốc Đan Mạch; hoặc làm đại sứ tại Dresden của Tuyển hầu xứ Sachsen. Ông đã chọn trở thành đại sứ tại Dresden vào cuối tháng 1 năm 1801, và việc bổ nhiệm ông được chính thức công bố vào tháng 2 cùng năm. Metternich đã nghỉ hè ở Vienna, nơi ông viết "Hướng dẫn", một bản ghi nhớ thể hiện sự hiểu biết sâu sắc hơn nhiều về nghệ thuật chính trị so với bài viết trước đó của mình. Ông đến thăm điền trang Königswart vào mùa thu trước khi đảm nhận vị trí mới vào ngày 4 tháng 11.

Để bù đắp cho việc mất đi các điền trang của tổ tiên Metternich ở thung lũng Moselle khi bị Đệ nhất Cộng hòa Pháp sáp nhập bờ Tây sông Rhine, Reichsdeputationshauptschluss năm 1803 đã mang lại cho gia đình Metternich những điền trang mới ở Ochsenhausen, tước hiệu Thân vương và một ghế trong Đại hội Đế chế. Trong cuộc cải tổ ngoại giao sau đó, Metternich được bổ nhiệm làm đại sứ tại Vương quốc Phổ, được thông báo về điều này vào tháng 2 năm 1803 và nhậm chức vào tháng 11 năm đó. nhanh chóng trở nên lo lắng về tham vọng lãnh thổ của Napoléon Bonaparte, nhà lãnh đạo mới của Pháp. Nỗi sợ hãi này đã được chia sẻ bởi triều đình Nga dưới thời Alexander I, và Sa hoàng đã thông báo cho Metternich về chính sách của Đế chế Nga. Vào mùa thu năm 1804, Vienna quyết định hành động bắt đầu vào tháng 8 năm 1805, Đế quốc Áo (khi Đế chế La Mã Thần thánh đang trong quá trình tan rã)

Paris

thumb|upright|Metternich, c. 1808 Trong cuộc cải tổ sau đó ở Vienna, Bá tước Johann Philipp von Stadion-Warthausen trở thành Bộ trưởng Ngoại giao của Đế chế Áo, Metternich đã bị loại khỏi kế hoạch đến làm Đại sứ tại Đế quốc Nga. Ông ấy không bao giờ đến được Nga, vì nhu cầu về một đại sứ Áo tại triều đình Pháp là cấp bách hơn cả. Metternich đã được phê duyệt cho vị trí này vào tháng 6 năm 1806. Ông rất thích và vui mừng vì được gửi đến Pháp với mức lương hậu hĩnh 90.000 Gulden mỗi năm. Sau một chuyến đi gian khổ, ông đến trú sứ vào tháng 8 năm 1806, được giới thiệu tóm tắt bởi Nam tước von Vincent và Engelbert von Floret, những người mà ông sẽ giữ lại làm cố vấn thân cận trong hai thập kỷ tiếp theo của sự nghiệp mình. Ông gặp ngoại trưởng Pháp Thân vương Charles Maurice de Talleyrand-Périgord vào ngày 5 tháng 8 và diện kiến Hoàng đế Napoléon năm ngày sau tại Saint-Cloud; chẳng bao lâu, Chiến tranh Liên minh thứ tư đã kéo cả Talleyrand và Napoléon về phía Đông. Vợ và các con của Metternich đã đến sống cùng ông ở Paris vào tháng 10, và ông ấy bước vào xã hội thượng lưu, sử dụng sự quyến rũ của mình để giành được sự nổi tiếng ở đó. Sự hiện diện của Eleonore không ngăn cản Metternich khỏi một loạt các cuộc tình vụng trộm, trong đó có cả Công chúa Caroline Murat, em gái của Hoàng đế Napoléon, Laure Junot, và có lẽ nhiều người khác nữa. Metternich đã thúc đẩy một liên minh Nga-Áo, mặc dù Sa hoàng Alexander quá bận tâm đến ba cuộc chiến khác mà ông đã tham gia. Theo thời gian, Metternich coi cuộc chiến cuối cùng với Pháp là điều không thể tránh khỏi. Ngay sau đó, Napoléon từ chối sự tham dự của Metternich tại Đại hội Erfurt; Metternich sau đó rất vui khi nghe tin từ Talleyrand rằng nỗ lực của Napoléon tại Đại hội nhằm khiến Nga xâm lược Áo đã không thành công. Cuối năm 1808, Metternich được triệu hồi về Viên để họp trong 5 tuần về khả năng Áo xâm lược Pháp trong khi Napoléon đang tham gia chiến dịch ở Tây Ban Nha. Trong các cuộc đàm phán hòa bình tại Altenburg, Metternich đưa ra các đề xuất thân Pháp để cứu chế độ quân chủ Áo. Tuy nhiên, Napoléon không thích quan điểm của ông về tương lai của Ba Lan, và Metternich dần dần bị Thân vương xứ Liechtenstein loại khỏi quá trình đàm phán. Tuy nhiên, ông sớm giành lại ảnh hưởng vào ngày 8 tháng 10, với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao (và thêm vào đó là Bộ trưởng Bộ Hoàng gia). Đến ngày 7 tháng 2, Napoléon đã đồng ý và cặp đôi đã kết hôn theo ủy quyền vào ngày 11 tháng 3. Marie Louise rời Pháp ngay sau đó và Metternich theo một con đường khác và không chính thức. Metternich giải thích rằng chuyến đi được thiết kế để đưa gia đình ông (bị mắc kẹt ở Pháp do chiến tranh bùng nổ) về nhà và báo cáo với Hoàng đế Áo về các hoạt động của Marie Louise.

Cuộc họp ở Dresden tiết lộ rằng ảnh hưởng của Áo ở châu Âu đã đạt đến điểm thấp nhất, và Metternich hiện đang muốn thiết lập lại ảnh hưởng đó bằng cách sử dụng điều mà ông coi là mối quan hệ bền chặt với tất cả các bên trong cuộc chiến, đề xuất các cuộc đàm phán hòa bình chung do Áo đứng đầu. Trong 3 tháng tiếp theo, ông sẽ từ từ tách Áo ra khỏi chính nghĩa của Pháp, đồng thời tránh liên minh với Phổ hoặc Nga, và sẵn sàng đón nhận bất kỳ đề xuất nào có thể đảm bảo một vị trí cho vương triều Bonaparte-Habsburg kết hợp. Tuy nhiên, Napoléon không khoan nhượng và cuộc giao tranh (nay chính thức là Chiến tranh Liên minh thứ sáu) vẫn tiếp tục. Liên minh của Áo với Pháp kết thúc vào tháng 2 năm 1813, và Áo sau đó chuyển sang vị trí trung lập vũ trang. Metternich ngày càng lo lắng rằng cuộc rút lui của Napoléon sẽ kéo theo tình trạng hỗn loạn có thể gây hại cho Vương tộc Habsburg. Trong các cuộc đàm phán mà sau này sẽ được phê chuẩn thành Công ước Reichenbach, họ đã đồng ý về các yêu cầu hòa bình chung và đặt ra một quy trình để Áo có thể tham chiến theo phe Liên minh. Ngay sau đó Metternich được mời tham gia nghị đàm cùng Napoléon tại Dresden, nơi ông có thể trực tiếp đưa ra các điều khoản. Mặc dù không có hồ sơ đáng tin cậy nào về cuộc họp của họ vào ngày 26 tháng 6 năm 1813, nhưng có vẻ như đó là một cuộc họp giông bão nhưng hiệu quả. Thỏa thuận cuối cùng đã đạt được khi Metternich chuẩn bị rời đi: Khi đồng ý với điều này, Metternich đã phớt lờ Công ước Reichenbach, và điều này khiến các đồng minh Liên minh của Áo tức giận. Trong phần còn lại của cuộc chiến, ông đã cố gắng giữ Liên minh lại với nhau và do đó, để kiềm chế động lực của Nga ở châu Âu. Cuối cùng, ông đã giành được chiến thắng sớm với tư cách là một tướng Áo, Thân vương Schwarzenberg, được xác nhận là chỉ huy tối cao của lực lượng Liên minh chứ không phải là Sa hoàng Alexander I. Ông cũng đã thành công trong việc lôi kéo được ba vị vua đồng minh (Alexander, Francis và Friedrich Wilhelm III) đi theo ông và quân đội của họ trong chiến dịch. Với Hiệp ước Teplitz, Metternich cho phép Áo tiếp tục cam kết về tương lai của Pháp, Ý và Ba Lan. Tuy nhiên, ông vẫn bị giới hạn bởi người Anh, những người đang trợ giúp cho Phổ và Nga (vào tháng 9, Metternich cũng yêu cầu hỗ trợ cho Áo). gia tăng vào tháng 1, khiến vị sa hoàng này nổi cơn thịnh nộ. Do đó, ông đã bỏ lỡ sự xuất hiện của Castlereagh vào giữa tháng Giêng. Metternich và Castlereagh đã hình thành một mối quan hệ làm việc tốt đẹp và sau đó gặp Alexander tại Langres. Tuy nhiên, Sa hoàng vẫn không hài lòng, yêu cầu tấn công mạnh vào trung tâm nước Pháp; nhưng ông ấy quá bận tâm để phản đối những ý tưởng khác của Metternich, chẳng hạn như một hội nghị hòa bình cuối cùng ở Vienna. Metternich đã không tham gia các cuộc nói chuyện với người Pháp tại Chatillon vì ông ấy muốn ở lại với Alexander. Các cuộc đàm phán bị đình trệ, và sau một cuộc tiến công ngắn, lực lượng Liên quân phải rút lui sau Trận Montmirail và Trận Montereau. Điều này làm giảm bớt lo ngại của Metternich rằng một Alexander quá tự tin có thể hành động đơn phương.

Về việc phân chia Ba Lan và Đức trước đây do Pháp chiếm đóng, Metternich bị hạn chế nhiều hơn bởi lợi ích của Đồng minh. Sau hai đề xuất thất bại do người Phổ đưa ra, vấn đề này đã bị hoãn lại cho đến sau khi một hiệp ước hòa bình được ký kết. Bây giờ được tự do, Metternich tháp tùng Sa hoàng Alexander đến Anh; Wilhelmine, người đã theo Metternich đến Paris, cũng đã vượt biển.

Đại hội Viên

[[Tập tin:Vienna Congress.jpg|thumb|upright=1.3|Metternich bên cạnh Công tước xứ Wellington, Talleyrand và các nhà ngoại giao châu Âu khác tại Đại hội Viên, 1815]]

thumb|upright=1.3|Biên giới quốc gia bên trong châu Âu do Đại hội Viên thiết lập

Vào mùa thu năm 1814, những người đứng đầu của năm triều đại trị vì và đại diện của 216 gia đình quý tộc bắt đầu tập trung tại Kinh thành Viên của Đế chế Áo. Trước khi các bộ trưởng từ "Big Four" (đồng minh của Liên minh gồm Anh, Áo, Phổ và Nga) đến, Metternich lặng lẽ ở lại Baden bei Wien, hai giờ về phía nam. Khi nghe tin họ đã đến Vienna, ông ấy đã lên đường đến gặp họ và khuyến khích họ đi cùng mình trở lại Baden. Họ từ chối, và bốn cuộc họp đã được tổ chức ngay trong thành phố. Trên thực tế, nó sẽ sớm bị hoãn lại, chỉ với một khoản hoa hồng nhỏ bắt đầu được thực hiện vào tháng 11. Tuy nhiên, Sa hoàng Alexander đã sớm tỏ ra nhanh chóng và đồng ý chia cắt Ba Lan. Ông cũng mềm mỏng hơn đối với Vương quốc Sachsen của người Đức, và lần đầu tiên cho phép Talleyrand tham gia vào tất cả các cuộc thảo luận của Big Four (nay là Big Five).

Với sự đồng thuận mới, các vấn đề chính liên quan đến Ba Lan và Đức đã được giải quyết vào tuần thứ hai của tháng 2 năm 1815. Metternich hiện tập trung vào việc khiến các nhà nước khác nhau của Đức nhượng lại các quyền lịch sử cho một Quốc hội Liên bang mới có thể chống lại Phổ. Ông cũng hỗ trợ Ủy ban Thụy Sĩ và giải quyết vô số vấn đề nhỏ hơn, như quyền hàng hải trên sông Rhine. Bắt đầu Mùa Chay vào ngày 8 tháng 2 đã mang lại cho ông nhiều thời gian hơn để dành cho các vấn đề Đại hội này cũng như các cuộc thảo luận riêng về miền Nam Bán đảo Ý, nơi Joachim Murat được cho là đang nuôi dưỡng một đội quân Neapolitan. Vào ngày 7 tháng 3, Metternich được đánh thức với tin tức rằng Hoàng đế Napoléon đã trốn thoát khỏi đảo Elba của mình và trong vòng một giờ đã gặp cả Sa hoàng và Vua nước Phổ. Tất nhiên, Metternich không muốn thay đổi vội vàng và lúc đầu, có rất ít tác động đến Đại hội. Cuối cùng, vào ngày 13 tháng 3, Big Five tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật và quân Đồng minh bắt đầu chuẩn bị cho cuộc giao tranh mới. Vào ngày 25 tháng 3, họ đã ký một hiệp ước cam kết mỗi bên cử 150.000 người mà không có dấu hiệu nào cho thấy lập trường gây chia rẽ trước đây của họ. Sau khi các chỉ huy quân sự rời đi, Đại hội Viên bắt tay vào công việc nghiêm túc, ấn định ranh giới của một Hà Lan độc lập, chính thức hóa các đề xuất về một liên minh lỏng lẻo gồm các bang của Thụy Sĩ và phê chuẩn các thỏa thuận trước đó về Ba Lan. Đến cuối tháng 4, chỉ còn lại hai vấn đề lớn, đó là tổ chức một liên bang mới của Đức và vấn đề của Ý. Sự sắp xếp cũng phổ biến tương tự với hầu hết các đại diện của Đức. Một hiệp ước tổng kết được ký vào ngày 19 tháng 6 (người Nga ký một tuần sau đó),

Paris và Ý

thumb|Bản đồ Châu Âu, làm nổi bật [[Liên minh Thần thánh, được thành lập năm 1815, năm 1840]] Metternich đã sớm trở lại với các đồng minh trong liên minh ở Paris, một lần nữa thảo luận về các điều khoản hòa bình. Sau 133 ngày đàm phán, lâu hơn cả tình trạng hỗn loạn, Hiệp ước Paris thứ hai đã được ký kết vào ngày 20 tháng 11. Metternich, cho rằng nước Pháp không nên bị chia cắt, hài lòng với kết quả:

Metternich hiện quay trở lại câu hỏi về Bán đảo Ý, thực hiện chuyến thăm đầu tiên đến đất nước này vào đầu tháng 12 năm 1815. Sau khi thăm Venice, gia đình ông đã cùng ông đến Milan vào ngày 18 tháng 12. Lần đầu tiên, Metternich đóng vai người theo chủ nghĩa tự do, thúc giục Hoàng đế Francis trao cho khu vực một số quyền tự trị một cách vô ích. Metternich đã dành bốn tháng ở Ý, bận rộn vô tận và bị viêm mí mắt mãn tính. Ông cố gắng kiểm soát chính sách đối ngoại của Áo từ Milan và khi có bất đồng nghiêm trọng giữa Đế chế Áo và Vương quốc Bayern, ông đã bị chỉ trích nặng nề vì vắng mặt. Tuy nhiên, kẻ thù của ông ta không thể tận dụng điều này; Stadion bận rộn với công việc của mình với tư cách là bộ trưởng tài chính và Hoàng hậu Maria Ludovika, một người chỉ trích gay gắt các chính sách của Metternich, qua đời vào tháng 4. Khoảng cách không bình thường giữa quan điểm của Metternich và hoàng đế của ông chỉ được xoa dịu bằng sự thỏa hiệp tích cực của các đề xuất. Metternich trở lại Vienna vào ngày 28 tháng 5 năm 1816 sau gần một năm vắng bóng. Về mặt chuyên môn, phần còn lại của năm 1816 lặng lẽ trôi qua đối với vị Bộ trưởng mệt mỏi, người quan tâm đến chính sách tài khóa và theo dõi sự lan rộng của chủ nghĩa tự do ở Đức và chủ nghĩa dân tộc ở Ý. Cá nhân ông ấy đã bị chấn động vào tháng 11 trước cái chết của Julie Zichy-Festetic. Hai năm sau, ông ấy viết rằng "cuộc đời đã kết thúc ở đó" và sự phù phiếm cũ của ông ấy đã mất một thời gian để quay trở lại. Niềm an ủi duy nhất là tin tức vào tháng 7 rằng Metternich sẽ nhận được các điền trang mới dọc theo sông Rhine tại Johannisberg, chỉ 25 dặm (40 km) từ nơi sinh của ông tại Koblenz.

Aachen, Teplice, Karlsbad, Troppau và Laibach

thumb|upright=1.05|Đài tưởng niệm Đại hội ở Aachen Trọng tâm chính của Metternich vẫn là duy trì sự thống nhất giữa các cường quốc châu Âu và do đó, quyền lực của chính ông với tư cách là người hòa giải. Ông cũng lo ngại về ảnh hưởng ngày càng tăng của Ioannis Kapodistrias có đầu óc tự do đối với Sa hoàng Alexander và mối đe dọa liên tục của việc Nga sáp nhập các khu vực rộng lớn của Đế quốc Ottoman đang suy tàn (cái gọi là Câu hỏi phương Đông). Như ông đã dự tính trước đó, vào tháng 4 năm 1818, nước Anh đã soạn thảo và Metternich đã thông qua các đề xuất tổ chức Đại hội tại Aachen, khi đó là một thị trấn biên giới của Vương quốc Phổ, 6 tháng sau. Trong khi đó, Metternich được khuyên nên đến thị trấn spa Karlsbad để điều trị chứng thấp khớp ở lưng. Đó là một chuyến đi thú vị kéo dài 1 tháng, mặc dù ở đó ông nhận được tin cha mình qua đời ở tuổi 72. Ông đã đến thăm điền trang của gia đình tại Königswart và sau đó là Frankfurt vào cuối tháng 8 để khuyến khích các quốc gia thành viên của Bang liên Đức thống nhất về các vấn đề thủ tục. Bây giờ ông ấy cũng có thể đến thăm Koblenz lần đầu tiên sau 25 năm và điền trang mới của ông ấy tại Johannisberg. Đi cùng Hoàng đế Francis, ông được các thị trấn Công giáo dọc theo sông Rhine chào đón nồng nhiệt khi ông tiến về phía Aachen. Metternich đã thực hiện ngày đó, sử dụng một nỗ lực gần đây về cuộc đời của Bộ trưởng Nassau, Carl Ibell để giành được sự đồng ý cho chương trình bảo thủ hiện được gọi là Công ước Teplitz. Hội nghị Karlsbad khai mạc vào ngày 6 tháng 8 và kéo dài đến hết tháng. Bây giờ ông ấy hối hận vì đã nhanh chóng thông qua hiến pháp ban đầu của nó 5 năm trước. Tuy nhiên, ông vẫn giữ vững quan điểm về các vấn đề khác và Đạo luật cuối cùng của Hội nghị có tính phản động cao, giống như Metternich đã dự tính. Ông ở lại Kinh đô Viên cho đến khi kết thúc vào tháng 5 năm 1820, và nhận thấy toàn bộ công việc trở nên nhàm chán. Vào ngày 6 tháng 5, ông nghe tin con gái mình Klementine qua đời vì bệnh lao. Đang trên đường đến Praha, ông nghe tin con gái lớn Maria của mình cũng mắc bệnh. Metternich đã ở bên giường bệnh của cô ấy ở Baden bei Wien khi cô ấy qua đời vào ngày 20 tháng 7., nhưng trước sự thất vọng và ngạc nhiên của ông, Guglielmo Pepe đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy ở Napoli kinh đô của Vương quốc Hai Sicilia vào đầu tháng 7 và buộc Vua Ferdinand I phải chấp nhận một hiến pháp mới.

Đại hội giải tán vào tuần thứ ba của tháng 12, và bước tiếp theo sẽ là một Đại hội tại Laibach để thảo luận về việc can thiệp với Ferdinand để kiềm chế cách mạng tự do tại Vương quốc Hai Sicilia. Metternich nhận thấy mình có thể nắm đại hội Laibach dưới bàn tay của mình hơn bất kỳ đại hội nào khác, giám sát việc Ferdinand từ chối hiến pháp tự do mà ông đã đồng ý chỉ vài tháng trước đó. Quân đội Áo hành quân đến kinh đô Napoli vào tháng 2 và tiến vào thành phố vào tháng 3. Đại hội đã bị hoãn lại, nhưng, được báo trước hoặc do may mắn, Metternich đã theo sát các đại diện của các cường quốc cho đến khi cuộc nổi dậy bị dập tắt. Kết quả là, khi các cuộc nổi dậy tương tự nổ ra ở Piedmont vào giữa tháng 3, Metternich đã nắm được Sa hoàng trong tay, người đã đồng ý cử 90.000 người đến biên giới để thể hiện tình đoàn kết. Viên ngày càng lo ngại rằng chính sách của Metternich quá đắt. Ông ấy trả lời rằng Napoli và Piedmont sẽ trả giá cho sự ổn định; tuy nhiên, rõ ràng ông cũng lo lắng cho tương lai của Bán đảo Ý. Ông cảm thấy nhẹ nhõm khi được Hoàng đế Áo trao cho ghế Chưởng ấn triều đình và Chưởng ấn Nhà nước vào ngày 25 tháng 5, một vị trí bị bỏ trống kể từ cái chết của Kaunitz vào năm 1794. Ông cũng hài lòng về sự gần gũi mới (nếu mong manh) giữa Áo, Phổ và Nga;

Giữ ghế Tể tướng đại thần

Hannover, Verona, và Czernowitz

thumb|upright=1.2|Hí hoạ về [[Đại hội Verona (1822)]]

Năm 1821, trong khi Metternich vẫn đang ở Laibach cùng với Sa hoàng Alexander, cuộc nổi dậy của Hoàng thân Alexander Ypsilantis đe dọa đưa Đế chế Ottoman đến bờ vực sụp đổ. Muốn có một Đế chế Ottoman hùng mạnh để đối trọng với Đế quốc Nga, Trước khi Alexander trở về Nga, Metternich đã đảm bảo thỏa thuận không hành động đơn phương và sẽ viết thư cho Sa hoàng hết lần này đến lần khác yêu cầu ông không can thiệp.

Vào dịp Giáng sinh, Sa hoàng dao động nhiều hơn những gì Metternich mong đợi và cử Dmitry Tatishchev đến Viên vào tháng 2 năm 1822 để nói chuyện với Tể tướng đại thần Áo. Metternich sớm thuyết phục được người Nga "tự phụ và đầy tham vọng" để ông dàn xếp cho các sự kiện. Áo kêu gọi không can thiệp, nhưng chính người Pháp đã đưa ra đề xuất của họ về một lực lượng xâm lược chung. Vương quốc Phổ cam kết cung cấp binh lính,

thumb|upright=1.2|Văn phòng Hoàng thân Clemens von Metternich 1829

Đề xuất kép của Sa hoàng cho các cuộc họp ở St Petersburg, một giải pháp cho Câu hỏi phương Đông có lợi cho Nga và quyền tự trị hạn chế cho ba công quốc Hy Lạp, là một cặp đôi không được các cường quốc châu Âu khác ưa thích và những người tham dự tiềm năng như Ngoại trưởng Anh George Canning dần quay lưng, khiến Alexander rất khó chịu. Trong vài tháng sau đó, Metternich tin rằng ông đã đạt được mức độ ảnh hưởng độc nhất vô nhị đối với Sa hoàng.

Nghị viện Hungary, cái chết của Alexander I và các vấn đề ở Ý

thumb|upright=1.2|Nghị viện Hungary năm 1830 thumb|Cái chết của Sa hoàng Nga Alexander I ở Taganrog (bản in thạch bản thế kỷ 19) Vào đầu những năm 1820, Metternich đã khuyên Hoàng đế Francis rằng việc triệu tập Nghị viện Hungary sẽ giúp cải cách tài chính được chấp thuận. Trên thực tế, Nghị viện từ năm 1825 đến năm 1827 đã chứng kiến 300 phiên họp đầy rẫy những lời chỉ trích về cách Đế chế đã làm xói mòn các quyền lịch sử của giới quý tộc Vương quốc Hungary. Metternich phàn nàn rằng nó "làm cản trở thời gian của [ông ấy], phong tục của [ông ấy] và cuộc sống hàng ngày của [ông ấy]", khi ông ấy buộc phải tới Pressburg (Bratislava ngày nay) để thực hiện các nhiệm vụ nghi lễ và quan sát. Ông lo lắng trước sự phát triển của tình cảm dân tộc Hungary và cảnh giác với ảnh hưởng ngày càng tăng của những người theo chủ nghĩa dân tộc như István Széchenyi, người mà ông đã gặp hai lần vào năm 1825. Trở lại Kinh thành Viên, vào giữa tháng 12, ông nghe tin Sa hoàng Alexander qua đời với nhiều cảm xúc lẫn lộn. Ông ta biết rõ về Sa hoàng và được nhắc nhở về sự yếu đuối của chính mình, mặc dù cái chết có khả năng xóa sạch những phương tiện ngoại giao chua chát tồn tại trước đó giữa ông và vị hoàng đế này. Hơn nữa, ông ta có thể tuyên bố công lao vì đã thấy trước cuộc nổi dậy của phe tự do tháng Chạp mà Sa hoàng Nicholas I mới lên ngôi mà phải đương đầu. Ngay thời điểm đó, Metternich đã 53 tuổi, ông chọn cử Đại công tước Ferdinand để thiết lập liên lạc đầu tiên với Nicholas. Metternich cũng thân thiện với sứ thần Anh (Công tước xứ Wellington) và tranh thủ sự giúp đỡ của ông ta để quyến rũ Nicholas. Mặc dù vậy, 18 tháng đầu tiên dưới triều đại của Nicholas không suôn sẻ đối với Metternich: thứ nhất, người Anh được chọn thay vì người Áo để giám sát các cuộc đàm phán Nga-Ottoman; và kết quả là Metternich không thể có ảnh hưởng gì đối với kết quả của Công ước Akkerman. Nước Pháp cũng bắt đầu xa rời quan điểm không can thiệp của Metternich. Vào tháng 8 năm 1826, Bộ trưởng Ngoại giao Nga Nesselrode từ chối đề xuất của Metternich về việc triệu tập một đại hội để thảo luận về các sự kiện cuối cùng đã dẫn đến sự bùng nổ của cuộc Nội chiến Bồ Đào Nha, nơi mà hai anh em ruột Pedro I của Brazil thuộc chủ nghĩa tự do và Miguel I của Bồ Đào Nha theo chủ nghĩa chuyên chế tranh dành ngai vàng. Ngoại trưởng Áo chấp nhận điều này với "sự kiên cường đáng ngạc nhiên". Sau khi một loạt các đề xuất khác của ông về các đại hội bị từ chối, Metternich đứng ra khỏi Câu hỏi phương Đông, chứng kiến Hiệp ước Adrianople (1829) được ký kết vào tháng 9 năm 1829. Mặc dù ông công khai chỉ trích hiệp định này là quá khắc nghiệt đối với Thổ, nhưng về mặt cá nhân, ông hài lòng với sự khoan hồng của nó. và hứa hẹn về quyền tự trị của Hy Lạp, khiến nước này trở thành vùng đệm chống lại sự bành trướng của Nga hơn là một quốc gia vệ tinh của Nga. Cuộc sống riêng tư của Metternich đầy đau buồn. Vào tháng 11 năm 1828, mẹ ông qua đời, và vào tháng 1 năm 1829, Antoinette qua đời, năm ngày sau khi sinh con trai của họ, Richard von Metternich. Sau khi chiến đấu với bệnh lao trong nhiều tháng, Viktor, con trai của Metternich, khi đó là một nhà ngoại giao cấp dưới, qua đời vào ngày 30 tháng 11 năm 1829. Do đó, ông đã trải qua lễ Giáng sinh một mình và chán nản, lo lắng trước những phương pháp hà khắc của một số người bảo thủ đồng nghiệp của mình và trước làn sóng đổi mới của chủ nghĩa tự do.

Vào tháng 5, Metternich đã có một kỳ nghỉ tại điền trang của mình ở Johannisberg. Ông trở lại Vienna một tháng sau đó, vẫn còn lo lắng về "sự hỗn loạn ở London và Paris" và khả năng ngăn chặn nó đang suy giảm. Mặc dù hài lòng về điều này, nhưng tâm trạng của Metternich trở nên tồi tệ trước tin tức về tình trạng bất ổn ở Brussels (khi đó vẫn còn là một phần của Hà Lan), việc Wellington từ chức ở London và những lời kêu gọi hợp hiến ở Đức. Ông ấy đã viết với sự u ám: "thú vị gần như bệnh hoạn" rằng đó là "sự khởi đầu của sự kết thúc" của Châu Âu già. Tuy nhiên, ông ấy rất phấn khích trước thực tế là Cách mạng Tháng Bảy đã khiến liên minh Pháp-Nga không thể tồn tại và Hà Lan đã triệu tập một đại hội kiểu cũ theo kiểu mà ông ấy rất thích. Cuộc triệu tập Nghị viện Hungary năm 1830 cũng thành công hơn những lần trước, phong Đại công tước Ferdinand làm Vua của Hungary mà không có bất kỳ ý kiến phản đối nào. Hơn nữa, vào tháng 11, lễ đính hôn của ông với Nữ bá tước 25 tuổi Melanie Zichy-Ferraris, người xuất thân từ một gia đình quý tộc Hungary mà Metternichs đã biết từ lâu, đã được đồng ý. Thông báo này khiến Vienna ít kinh ngạc hơn nhiều so với cô dâu trước của Metternich, và họ kết hôn vào ngày 30 tháng 1 năm 1831.

thumb|left|Lãnh chúa Palmerston, đối thủ mới của Metternich trên trường ngoại giao châu Âu Vào tháng 2 năm 1831 quân nổi dậy chiếm các thành phố Parma, Modena, Bologna và kêu gọi sự giúp đỡ của Pháp. Những người chủ cũ của họ đã kêu gọi sự giúp đỡ từ Áo, nhưng Metternich lo lắng không được đưa quân Áo vào Lãnh địa Giáo hoàng mà không có sự cho phép của Giáo hoàng mới Gregory XVI. Tuy nhiên, ông đã chiếm đóng Parma và Modena, và cuối cùng đã xâm nhập vào lãnh thổ của Giáo hoàng. Kết quả là, Ý đã được bình định vào cuối tháng 3. Ông cho phép rút quân khỏi Lãnh địa Giáo hoàng vào tháng 7, nhưng đến tháng 1 năm 1832, họ quay lại dẹp loạn lần thứ hai.

Câu hỏi phương Đông được xem xét lại và hòa bình ở châu Âu

thumb|upright|Metternich trong một bức tranh được cho là có niên đại từ năm 1835 đến 1840 thumb|Biếm họa Pedro IV và Miguel I của Bồ Đào Nha tranh chấp vương miện. Sự phát triển của cuộc nội chiến Bồ Đào Nha sẽ là một trong những lý do chính để ký kết Hiệp ước Bộ tứ. Năm 1831, Ai Cập xâm lược Đế quốc Ottoman. Có những lo ngại về sự sụp đổ hoàn toàn của Đế chế này, theo đó Đế chế Áo sẽ thu được rất ít quyền lợi. Do đó, Metternich đã đề xuất hỗ trợ đa phương cho Ottoman và một Đại hội Viên để sắp xếp chi tiết, nhưng người Pháp lảng tránh và người Anh thì từ chối ủng hộ bất kỳ đại hội nào được tổ chức tại Viên. Vào mùa hè năm 1833, quan hệ Anh-Áo xuống một mức thấp mới. Với Nga, Metternich tự tin hơn trong việc gây ảnh hưởng. Tuy nhiên, ông đã nhầm lẫn và phải quan sát từ xa sự can thiệp của Nga vào khu vực (đỉnh điểm là Hiệp ước Hünkâr İskelesi). Ông vẫn sắp xếp để gặp Vua nước Phổ tại Teplitz và tháp tùng Hoàng đế Francis đến gặp Sa hoàng Nicholas tại Münchengrätz vào tháng 9 năm 1833. Cuộc gặp trước đó diễn ra tốt đẹp: Metternich vẫn cảm thấy có thể thống trị người Phổ, bất chấp vị thế kinh tế đang lên của họ ở châu Âu. Metternich rời đi trong hạnh phúc; nỗi thất vọng duy nhất của ông là phải cam kết cứng rắn hơn với những người theo chủ nghĩa dân tộc Ba Lan. Vài năm tiếp theo trôi qua tương đối yên bình đối với Metternich: sự cố ngoại giao chỉ giới hạn ở việc thỉnh thoảng trao đổi giận dữ với Lãnh chúa Palmerston và việc Metternich không thể làm trung gian hòa giải giữa Anh và Nga về tranh chấp Biển Đen của họ. Ông cũng nỗ lực đưa công nghệ mới như đường sắt vào Đế chế Áo. Vấn đề cấp bách nhất là Hungary, nơi Metternich vẫn miễn cưỡng ủng hộ Széchenyi theo đường lối trung dung (nhưng vẫn theo chủ nghĩa dân tộc). Sự do dự của ông là "một bài bình luận đáng buồn về quyền lực hiện diện chính trị đang suy giảm của ông". Tại triều đình, Metternich ngày càng mất quyền lực vào tay ngôi sao đang lên Franz Anton von Kolowrat-Liebsteinsky, đặc biệt là trong các đề xuất tăng ngân sách quân sự của ông. Sau nỗ lực thất bại vào năm 1836 nhằm buộc cải cách hiến pháp (điều này sẽ mang lại cho ông ảnh hưởng lớn hơn) — phần lớn bị cản trở bởi Đại công tước John của Áo có tư tưởng tự do hơn — Metternich buộc phải chia sẻ nhiều quyền lực hơn với Kolowrat và Đại công tước Ludwig như một phần của Hội nghị Nhà nước Bí mật của Áo. Việc ra quyết định tạm dừng. Việc giải trí và duy trì các điền trang của ông tại Johannisberg, Königswart và Plasy (cùng với Mariánská Týnice) tiêu tốn nhiều nguồn lực của ông vào thời điểm ông phải nuôi bốn đứa con nhỏ, khiến ông thêm căng thẳng. Đối với những người khác, căn bệnh của ông ấy dường như đã phá vỡ niềm yêu thích làm việc tại văn phòng. Trong thập kỷ tiếp theo, vợ ông lặng lẽ chuẩn bị cho việc ông nghỉ hưu hoặc qua đời khi còn tại chức. Công việc của Metternich vào đầu những năm 1840 lại bị thống trị bởi Hungary và nói chung là các câu hỏi về bản sắc dân tộc đa dạng trong Đế quốc Áo. Tại đây, Metternich đã "cho thấy [khoảnh khắc] nhận thức sâu sắc". Tuy nhiên, các đề xuất về Hungary của ông đã đến quá muộn, vì Lajos Kossuth đã dẫn đầu sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Hungary mạnh mẽ. Sự ủng hộ của Metternich đối với các quốc tịch khác không đồng đều vì ông chỉ phản đối những quốc gia đe dọa sự thống nhất của Đế chế.

Tại Đại hội Nhà nước, Metternich đã mất đi đồng minh chính của mình là Bá tước Karl von Clam-Martinic vào năm 1840, điều này càng làm cho chính phủ Áo ngày càng tê liệt. Metternich giờ đây đã phải vật lộn để thực thi ngay cả mức độ kiểm duyệt mà ông ấy mong muốn. Không có thách thức lớn nào đối với chế độ từ bên ngoài. Ông đã hành động theo phán đoán này bằng cách cử một phái viên, Karl Ludwig von Ficquelmont đến Ý; bằng cách hồi sinh kế hoạch năm 1817 của ông chính là tạo ra một ghế thủ tướng cho Ý; và bằng cách sắp xếp các kế hoạch dự phòng khác nhau với người Pháp. Vào cuối tháng 2, nguyên soái người Áo Joseph Radetsky đã đặt nước Ý thuộc Áo (gọi là Vương quốc Lombardy-Venetia) dưới chế độ thiết quân luật khi những xáo trộn lan rộng. Mặc dù vậy và nghe nói về cuộc cách mạng mới ở Pháp, Metternich vẫn thận trọng, vẫn nghĩ rằng cuộc cách mạng trong nước khó có thể xảy ra. Ông được một nhà ngoại giao Sachsen mô tả, theo lời của nhà viết tiểu sử Musulin, "đã thu nhỏ lại thành cái bóng của chính mình trước đây". Mãi đến ngày 10 tháng 3, Metternich mới tỏ ra lo ngại về các sự kiện ở Vienna, nơi hiện đang có các mối đe dọa và phản công đang bay tới. Hai kiến nghị đã được tổ chức, kêu gọi tự do, minh bạch và đại diện hơn. Các sinh viên đã tham gia vào một số cuộc biểu tình, đỉnh điểm là vào ngày 13 tháng 3 khi họ cổ vũ hoàng gia thực hiện yêu sách, nhưng họ lại bày tỏ sự tức giận với Metternich. Sau một buổi sáng theo thông lệ, Metternich được gọi đến gặp Đại công tước Ludwig ngay sau buổi trưa. Sau khi ngủ trong Phủ thủ tướng, ông được khuyên nên rút lại đơn từ chức hoặc rời thành phố. Sau khi Ludwig gửi cho ông ta một thông điệp rằng chính phủ không thể đảm bảo an toàn cho ông, Metternich rời đến nhà của Bá tước Taaffe và sau đó, với sự trợ giúp của những người bạn Charles von Hügel và Johann Rechberg, đã đến được nơi ở của gia đình Thân vương Liechtenstein cách đó 40 dặm tại Felsberg, hiện nay là một thị trấn tại Cộng hòa Séc. Con gái của Metternich với Leontine, đi cùng họ vào ngày 21 tháng 3 và đề xuất nước Anh như là một nơi đến an toàn; đồng ý, Metternich, Melanie và Richard 19 tuổi lên đường, để lại những đứa trẻ cho Leontine. Sự từ chức của Metternich đã nhận được sự cổ vũ ở Vienna, và ngay cả những người dân thường ở Vienna cũng hoan nghênh sự kết thúc của kỷ nguyên xã hội bảo thủ của Metternich.

Lưu vong, trở về và cái chết

Sau một cuộc hành trình đầy lo lắng kéo dài 9 ngày, trong đó họ được chào đón ở một số thị trấn và bị từ chối nhập cảnh ở những thị trấn khác, Metternich, vợ và con trai Richard đã đến thành phố Arnhem của Hà Lan. Họ ở lại cho đến khi Metternich lấy lại sức, sau đó đến Amsterdam và The Hague, nơi họ chờ nghe kết quả của một cuộc biểu tình của các nhà lập biểu người Anh, dự kiến ​​vào ngày 10 tháng 4. Vào ngày 20 tháng 4, họ đến Blackwall, London, nơi họ ở trong khách sạn Brunswick bên Quảng trường Hannover trong 2 tuần cho đến khi tìm được nơi ở lâu dài. Metternich phần lớn tận hưởng thời gian ở London: Công tước Wellington, hiện đã gần 80 tuổi, cố gắng giúp ông giải trí, và cũng có những chuyến thăm từ Palmerston, Guizot (hiện cũng đang sống lưu vong) và Benjamin Disraeli, những người rất thích cuộc trò chuyện chính trị của ông. Sự thất vọng duy nhất là chính Nữ vương Victoria đã không thừa nhận sự hiện diện của Metternich ở thủ đô. Bộ ba đã thuê một ngôi nhà tại 44 Quảng trường Eaton, trong 4 tháng. Những đứa trẻ nhỏ hơn đã đến cùng với họ trong mùa hè. Ông ấy đã theo dõi các sự kiện ở Áo từ xa, và người tình cũ Catherine Bagration.

thumb|Bức ảnh của Hoàng thân Metternich,

Vào tháng 5 năm 1851, Metternich rời đến điền trang Johannisberg của mình, nơi ông đến thăm lần cuối vào năm 1845. Mùa hè năm đó, Metternich rất thích bầu bạn với đại diện nước Phổ Otto von Bismarck. Ông ta cũng rất thích chuyến thăm của Frederick William, mặc dù Nhà vua đã chọc tức Metternich bằng cách coi ông như một công cụ chống lại Schwarzenberg. Vào tháng 9, Metternich quay trở lại Vienna, dọc đường được tiếp đón bởi nhiều Thân vương Đức. Sau khi lên nắm quyền vào đầu năm 1856, ông bận rộn chuẩn bị cho cuộc hôn nhân giữa con trai Richard và cháu gái Pauline (con gái của chị kế của Richard) và tiến hành nhiều chuyến du lịch hơn. Vua của Bỉ đến thăm, Bismarck cũng vậy, và vào ngày 16 tháng 8 năm 1857, ông tiếp đãi Edward VII, vị vua tương lai của Vương quốc Anh. Tuy nhiên, Buol ngày càng phẫn nộ với lời khuyên của Metternich, đặc biệt là về Bán đảo Ý. Vào tháng 4 năm 1859, Hoàng đế Franz Josef đến hỏi ông về những gì nên làm ở Ý. Theo Pauline, Metternich cầu xin ông đừng gửi tối hậu thư cho Ý, và Franz Josef giải thích rằng tối hậu thư đó đã được gửi đi.

thumb|upright=1.2|Nhà thờ nghĩa trang St. Wenceslaus ở [[Plasy, nơi chôn cất Metternich]] Theo cách này, trước sự thất vọng của Metternich và sự bối rối của hoàng đế, Áo bắt đầu tham gia Chiến tranh giành độc lập lần thứ hai của Ý chống lại lực lượng tổng hợp của Vương quốc Piedmont-Sardinia do Vua Victor Emmanuel II đứng đầu và đồng minh của nó là Đệ Nhị Đế chế Pháp của Hoàng đế Napoleon III. Mặc dù Metternich đã có thể đảm bảo việc thay thế Buol bằng người bạn Rechberg, người đã giúp đỡ ông rất nhiều vào năm 1848, nhưng bản thân việc tham gia vào cuộc chiến giờ đây đã vượt quá khả năng của ông. Ngay cả một nhiệm vụ đặc biệt do Hoàng đế Franz Josef giao cho ông vào tháng 6 năm 1859— soạn thảo các giấy tờ bí mật đề cập đến sự kiện cái chết của Franz Josef — giờ đây cũng quá nặng nề. Ngay sau đó Metternich qua đời tại Viên vào ngày 11 tháng 6 năm 1859, hưởng thọ 86 tuổi, và là nhân vật vĩ đại cuối cùng trong thế hệ của ông. Hầu như tất cả những người nổi tiếng ở Vienna đều đến để tỏ lòng thành kính; trên báo chí nước ngoài, cái chết của ông hầu như không được chú ý. Nếu Metternich không cản trở "sự tiến bộ", Áo có thể đã cải cách, giải quyết tốt hơn các vấn đề về quốc tịch và Chiến tranh thế giới thứ nhất có thể đã không bao giờ xảy ra. Kiểm duyệt gắt gao chỉ là một trong một loạt các công cụ đàn áp của nhà nước dành cho ông ta, bao gồm cả một mạng lưới gián điệp rộng lớn.] Metternich phản đối cải cách bầu cử, chỉ trích Dự luật Cải cách năm 1832 của Anh. Nói tóm lại, ông ta tự giam mình trong một trận chiến cay đắng chống lại "tâm trạng thịnh hành của thời đại mình". Ví dụ, đặc biệt là sau Thế chiến thứ hai, các nhà sử học có nhiều khả năng sẽ bảo vệ các chính sách của Metternich như những nỗ lực hợp lý để đạt được các mục tiêu của ông, chủ yếu là cân bằng quyền lực ở châu Âu. Các nhà sử học thông cảm chỉ ra rằng Metternich đã dự đoán chính xác và làm việc để ngăn chặn sự thống trị của Nga ở châu Âu, thành công ở nơi mà những người kế vị ông sẽ thất bại 130 năm sau.

Các quan điểm chỉ trích cho rằng Metternich có khả năng định hình châu Âu một cách thuận lợi nhưng đã chọn không làm như vậy. Nhiều bài phê bình hiện đại hơn như của A. J. P. Taylor đã đặt câu hỏi về mức độ ảnh hưởng của Metternich trên thực tế. Kết quả là Metternich không phải là nhà ngoại giao hấp dẫn: Taylor mô tả ông là "người đàn ông nhàm chán nhất trong lịch sử châu Âu". người đã hoàn thiện và thực sự định hình bản chất của ngoại giao trong thời đại của ông. Theo cách tương tự, Alan Sked lập luận rằng "màn khói" của Metternich có thể đã phục vụ mục đích thúc đẩy một bộ nguyên tắc tương đối mạch lạc.

Với Nữ bá tước Maria Eleonore von Kaunitz-Rietberg (10 tháng 10 năm 1775 – 19 tháng 3 1825), cháu gái của Wenzel Anton, Thân vương xứ Kaunitz-Rietberg:

  • Maria Leopoldina (17 tháng 1 năm 1797 – 24 tháng 7 năm 1820), kết hôn vào ngày 15 tháng 9 năm 1817 với Bá tước Jozsef Esterházy de Galántha. Không có con.
  • Franz Karl Johann Georg (21 tháng 2 năm 1798 – 3 tháng 12 năm 1799).
  • Klemens Eduard (10 tháng 6 năm 1799 – 15 tháng 6 năm 1799).
  • Franz Karl Viktor Ernst Lothar Clemens Joseph Anton Adam (12 tháng 1 năm 1803 – 30 tháng 11 năm 1829); ông có một đứa con trai ngoài giá thú với Claire Clemence Henriette Claudine de Maillé de La Tour-Landry, con gái của Công tước thứ 2 xứ Maillé: ** Roger Armand Viktor Maurice, Nam tước von Aldenburg (21 tháng 10 năm 1827 – 14 tháng 10 năm 1906), chưa lập gia đình.
  • Klementine Marie Octavie (30 tháng 8 năm 1804 – 6 tháng 5 năm 1820).
  • Leontine Adelheid Maria Pauline (18 tháng 6 năm 1811 – 16 tháng 11 năm 1861), kết hôn ngày 8 tháng 2 năm 1835 với Bá tước Moric Sándor de Szlavnicza. Họ có một cô con gái: ** Pauline Klementine Marie Walburga Sándor de Szlavnicza (25 tháng 2 năm 1836 – 28 tháng 9 năm 1921), kết hôn vào ngày 13 tháng 6 năm 1856 với chú Richard von Metternich.
  • Hermine Gabriele (Henrietta) Marie Eleonore Leopoldine (1 tháng 9 năm 1815 – tháng 12 năm 1890), chưa lập gia đình.

Với Nữ Nam tước Maria Antoinette von Leykam, Nữ bá tước von Beylstein (15 tháng 8 năm 1806 – 17 tháng 1 năm 1829), con gái của Christoph Ambros Freiherr von Leykam ( 1781-1830) và vợ, Lucia Caputo di Petrella:

  • Richard Klemens Josef Lothar Hermann, Thân vương thứ 2 xứ Metternich (7 tháng 1 năm 1829 – 1 tháng 3 năm 1895), kết hôn vào ngày 13 tháng 6 năm 1856 với cháu gái Pauline Sándor de Szlavnicza. Họ có ba cô con gái: Sophie Marie Antoinette Leontine Melanie Julie (17 tháng 5 năm 1857 – 11 tháng 1 năm 1941), kết hôn ngày 24 tháng 4 năm 1878 với Hoàng thân Franz-Albrecht xứ Oettingen-Oettingen und Oettingen-Spielberg. Họ có ba người con: ** Franz Albert Otto Richard Notger (2 tháng 9 năm 1879 – 9 tháng 5 năm 1895), Thân vương xứ Oettingen-Oettingen ở Oettingen-Spielberg. Moritz Joseph Richard Notger (5 tháng 5 năm 1885 – 4 tháng 10 năm 1911), Thân vương xứ Oettingen-Oettingen ở Oettingen-Spielberg. * Công chúa Elisabeth Pauline Georgine Marie Notgera của Oettingen-Oettingen ở Oettingen-Spielberg (31 tháng 10 năm 1886 – 2 tháng 10 năm 1976), kết hôn vào ngày 19 tháng 11 năm 1910 với Thân vương Viktor III xứ Hohenlohe-Schillingsfürst-Breunner -Enkevoirth, Công tước xứ Ratibor và Thân vương xứ Corvey. Antoinette Pascalina (20 tháng 4 năm 1862 – 5 tháng 8 năm 1890), kết hôn ngày 11 tháng 7 năm 1885 với Bá tước Georg Wilhelm von Waldstein-Wartenberg. Không có con. ** Klementine Marie Melanie Sofie Leontine Crescentia (27 tháng 6 năm 1870 – 25 tháng 10 năm 1963), chưa lập gia đình; bà nhận Thân vương Franz Albrecht của Hohenlohe (sinh năm 1920; con trai của cháu gái bà Elisabeth), người lấy tước hiệu Thân vương xứ Hohenlohe-Schillingsfürst-Meternich-Sándor.

Với Nữ bá tước Melania Maria Antonia Zichy-Ferraris de Zich et Vásonykeö (18 tháng 1 năm 1805 – 3 tháng 3 năm 1854), con gái của Bá tước Ferenc Franz Zichy de Zich et Vásonkeö (1777-1839) và vợ, Nữ bá tước Marie Wilhelmine von Ferraris (1780-1866):

  • Melanie Marie Pauline Alexandrine (27 tháng 2 năm 1832 – 16 tháng 11 năm 1919), kết hôn vào ngày 20 tháng 11 năm 1853 với Bá tước Jozsef Zichy de Zich et Vásonykeö. Không có con.
  • Klemens (21 tháng 4 năm 1833 – 10 tháng 6 năm 1833).
  • Paul Klemens Lothar, Thân vương thứ 3 xứ Metternich (14 tháng 10 năm 1834 – 6 tháng 2 năm 1906), kết hôn vào ngày 9 tháng 5 năm 1868 với em họ là Nữ bá tước Melania Zichy-Ferraris de Zich und Vásonykeö. Họ có ba người con: ** Klemens II Wenzel Lothar Michal Felix (Richard), Thân vương thứ 4 xứ Metternich (9 tháng 2 năm 1869 – 13 tháng 5 năm 1930), kết hôn vào ngày 4 tháng 10 năm 1905 với Isabel de Silva y Carvajal. Họ có một con trai: * Paul II Alphonse Klemens Lothar Filip Neri Felix Nikomedes, Thân vương thứ 5 xứ Metternich (26 tháng 5 năm 1917 – 21 tháng 9 năm 1992), kết hôn vào ngày 6 tháng 9 năm 1941 với Công chúa Tatiana Hilarionovna Wassiltchikova; ông qua đời mà không có con và tước hiệu Thân vương xứ Metternich đã biến mất. Emilie Marie Felicitas (24 tháng 2 năm 1873 – 20 tháng 1 năm 1884). ** Pauline Felix Maria (6 tháng 1 năm 1880 – 19 tháng 5 năm 1960), kết hôn vào ngày 5 tháng 5 năm 1906 với Thân vương Maximilian Theodor xứ Thurn und Taxis. Họ có một cô con gái.
  • Maria Emilia Stephanie (22 tháng 3 năm 1836 – 12 tháng 6 năm 1836).
  • Lothar Stephan August Klemens Maria (13 tháng 9 năm 1837 – 2 tháng 10 năm 1904), kết hôn lần đầu vào ngày 21 tháng 4 năm 1868 với Karoline Anna Rosalie Johanna Reittner, và lần thứ hai vào ngày 5 tháng 6 năm 1900 với Nữ bá tước Františka Mittrowsky von Mittrowitz. Không có con trong cả 2 cuộc hôn nhân.

Với Nữ bá tước Katharina Skavronskaya, con của Nữ thân vương Bagration (ngoài giá thú, được thừa nhận):

  • Marie-Clementine Bagration (29 tháng 9 năm 1810 – 29 tháng 5 năm 1829), kết hôn vào ngày 1 tháng 5 năm 1828 với Otto, Lensgraf von Blome. Họ có một con trai: Otto Paul Julius Gustav (18 tháng 5 năm 1829 – 24 tháng 8 năm 1906), Lensgraf von Blome; kết hôn vào ngày 1 tháng 9 năm 1858 với Joséphine, Nữ bá tước von Buol-Schauenstein. Họ có 9 người con: ** Nữ bá tước Marie-Clementine Blome (23 tháng 6 năm 1860 – chết trẻ). Karl Otto Arnold (12 tháng 12 năm 1861 – 5 tháng 9 năm 1926), Lensgraf von Blome; kết hôn vào ngày 6 tháng 7 năm 1907 với Nữ bá tước Maria Hedwig Ida Leopolda Hermenegilde xứ Stolberg-Stolberg. Không có con. Nữ bá tước Maria Sophie von Blome (23 tháng 11 năm 1864 – chết trẻ). Louis Pius Blome (1 tháng 12 năm 1865 – 1930), Lensgraf von Blome. Johannes Hubertus Xaverius (23 tháng 2 năm 1867 – 19 tháng 7 năm 1945), Lensgraf von Blome; kết hôn vào ngày 19 tháng 11 năm 1901 với Công chúa Martha Elisabeth Maria Stirbey (1877-1925). Họ có một cô con gái. Nữ bá tước Maria Adeline von Blome (21 tháng 8 năm 1868 – chết trẻ). Nữ bá tước Anna Maria von Blome (11 tháng 2 năm 1871 – 9 tháng 1 năm 1960), kết hôn năm 1896 với Franz August Joseph Maria, Bá tước von und zu Eltz genannt Faust von Stromberg. Họ có ba người con. Nữ bá tước Maria Giulia Sidonia von Blome (29 tháng 12 năm 1873 – 7 tháng 1 năm 1939), kết hôn năm 1906 với Bá tước Joseph von Plaz. Họ có ba người con. *** Nữ bá tước Maria Karola von Blome (16 tháng 1 năm 1877 – 19 tháng 7 năm 1951), một nữ tu.

Danh dự và huy hiệu

Danh hiệu

  • : Thập tự lớn Huân chương Hoàng gia Thánh Stephen, bằng kim cương, 1805 Hiệp sĩ Lông cừu vàng, 1805 ** Chữ thập vàng dân sự "Vì công trạng" (1813/1814)
  • Vương quốc Pháp: Thập tự lớn Bắc Đẩu Bội tinh, 1814 Hiệp sĩ Chúa Thánh thần, 30 tháng 05 năm 1825 ** Hiệp sĩ Thánh Michael
  • : Hiệp sĩ Thánh Andrew, 27 tháng 8 năm 1813 Hiệp sĩ Thánh Alexander Nevsky, 27 tháng 8 năm 1813 ** Hiệp sĩ Thánh Anna, hạng nhất, 27 tháng 8 năm 1813
  • Vương quốc Phổ: Hiệp sĩ Đại bàng đen, 13 tháng 9 năm 1813 Thập tự lớn của Đại bàng đỏ, 13 tháng 9 năm 1813 ** Pour le Mérite (dân sự), 31 tháng 5 năm 1842
  • Thụy Điển: Hiệp sĩ Seraphim, 12 tháng 4 năm 1814
  • : Hiệp sĩ Voi, 7 tháng 12 năm 1814
  • Vương quốc Sardegna: Hiệp sĩ Truyền tin, 4 tháng 1 năm 1815
  • Đại công quốc Baden: Thập tự lớn Huân chương Nhà Fidelity, bằng kim cương, 1815
  • : Hiệp sĩ Vương miện Rue, 1815
  • : Thập tự lớn của Huân chương Hoàng gia Guelphic, 1816 Hiệp sĩ Thánh George, 1841
  • Công quốc Parma: Senator Grand Cross Huân chương Constantinian của Thánh George, 1816
  • : Hiệp sĩ Thánh Januarius, 1816 Thập tự lớn Huân chương Thánh Ferdinand và Công lao, 1816 ** Công tước xứ Portella, 1818
  • Tuyển hầu quốc Hessen: Thập tự lớn Huân chương Sư tử vàng, ngày 25 tháng 5 năm 1817
  • Tây Ban Nha: Thập tự lớn Huân chương Carlos III, với Cổ áo, 20 tháng 10 năm 1817 Grandee hạng nhất, 1824
  • Vương quốc Württemberg: Hiệp sĩ Đại bàng vàng, 1818
  • Đại công quốc Hessen: Thập tự lớn của Huân chương Ludwig, 5 tháng 2 năm 1820
  • Công quốc Sachsen-Weimar-Eisenach: Thập tự lớn của Huân chương Chim ứng trắng, 20 tháng 6 năm 1820
  • Các công quốc Ernestine: Thập tự lớn của Huân chương Nhà Sachsen-Ernestine, tháng 8 năm 1835
  • Các Công quốc Ascania: Thập tự lớn Huân chương Albert Gấu, tháng 3 năm 1837
  • Vương quốc Bỉ: Dải lớn Huân chương Leopold
  • Lãnh địa Giáo hoàng: Thập tự lớn Huân chương Thánh Gregory Cả Chi này chỉ có một loài duy nhất, đó là Metternichia principis, tên loài được đặt theo tiếng La Tinh, "principis" có nguồn gốc từ "Princeps" có nghĩa là quan trọng nhất.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
thumb|Huy hiệu Thân vương xứ Metternich-Winneburg **Nhà Metternich** (tiếng Đức: _Haus Metternich_; tiếng Pháp: _Maison de Metternich_) là một gia đình quý tộc lâu đời ở Đức có nguồn gốc từ Vùng Rhineland. Thành viên
phải|nhỏ|300x300px|Lâu đài Kynžvart (2009) nhỏ|300x300px|Lâu đài trước khi được trùng tu (1995) **Lâu đài Kynžvart** (tiếng Séc: _Zámek Kynžvart, Hrad Kynžvart_) là một lâu đài lịch sử có từ thế kỷ 17, tọa lạc ở
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
thumb|Bản đồ châu Âu được chia lại sau Hội nghị Vienna **Đại hội Viên** (tiếng Đức: _Wiener Kongress_) là một hội nghị với sự tham gia của đại sứ tất cả các quốc gia châu
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Charles Maurice de Talleyrand-Périgord** (1754-1838) là một nhà chính trị, một nhà ngoại giao người Pháp thời cận đại. Ông nổi lên như là một nhân vật khôn ngoan, quyền biến và có ảnh hưởng
thumb|left|upright|Lãnh địa Beilstein trong [[Thung lũng Moselle]] **Lãnh địa Winneburg và Beilstein** (tiếng Đức: _Herrschaft Winneburg und Beilstein_) là một lãnh thổ của Đế chế La Mã Thần thánh được tạo thành từ các phần
thumb|Bản đồ [[Đế chế La Mã Thần thánh năm 1789]] thumb|[[Bang liên Đức sau năm 1815, kết quả của hòa giải Đức trong Chiến tranh Napoléon]] **Hòa giải Đức** (; ) là quá trình tái
**Ferdinand I** (19 tháng 4 năm 1793 – 29 tháng 6 name 1875) là Hoàng đế của Áo từ tháng 3/1835 cho đến khi thoái vị vào tháng 12/1848, đồng thời ông cũng là Chủ
**Trận Königgrätz**, còn gọi là **Trận Sadowa** hay **Trận Sadová** theo tiếng Tiệp Khắc, là trận đánh then chốt của cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, và chấm
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Hiệp ước Bí mật ở Viên** là một liên minh phòng thủ ký ngày 3 tháng 1 năm 1815 với sự tham gia của Pháp, Đế quốc Áo và Vương quốc Anh. Sự kiện diễn
**Napoléon II** (_Napoléon François Joseph Charles Bonaparte_; 20 tháng 3 năm 1811 – 22 tháng 7 năm 1832) là Hoàng đế Pháp (tranh chấp) trong vài tuần vào năm 1815. Là con trai của Hoàng
[[Hình:Map of the Holy Alliance (1840).svg|thumb|Các quốc gia thành lập Liên minh Thần thánh, chống lại các ranh giới châu Âu kể từ năm 1840.
]] **Liên minh Thần thánh** (;
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Trận Solferino** là một trận đánh quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ hai, diễn ra vào ngày 8 tháng 6 năm 1859 và kết thúc với chiến thắng của
thumb|upright=1.2|300|Cung điện Schönbrunn và các khu vườn, tranh của [[Bernardo Bellotto (1758/61)]] **Hiệp ước Schönbrunn** (tiếng Pháp: _Traité de Schönbrunn_; tiếng Đức: _Friede von Schönbrunn_; tiếng Anh: _Treaty of Schönbrunn_), đôi khi được gọi là
**Carlo Alberto I của Sardegna** (tiếng Anh: _Charles Albert_; 2 tháng 10 năm 1798 - 28 tháng 7 năm 1849) là Vua của Sardinia từ ngày 27 tháng 4 năm 1831 cho đến khi tuyên
Dona **Maria II** (4 tháng 4 năm 1819 – 15 tháng 11 năm 1853), được mệnh danh là **"Nhà giáo dục"** (tiếng Bồ Đào Nha: _"a Educadora"_) hay **"Người mẹ tốt"** (tiếng Bồ Đào Nha:
**_Jus exclusivae_** (tiếng Latin có nghĩa là "quyền loại trừ"; đôi khi được gọi là quyền **phủ quyết giáo hoàng**) là quyền được một số quân chủ Công giáo ở châu Âu tuyên bố phủ
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Đại học Göttingen**, tên chính thức là **Đại học Georg August Göttingen** () thường được gọi **Georgia Augusta**, là một viện đại học nghiên cứu công lập tại Göttingen, Đức. Được Quốc vương Anh kiêm
**Đại học Strasbourg** là một trường đại học ở Strasbourg, Alsace, Pháp, là trường đại học lớn nhất ở Pháp, với khoảng 43.000 sinh viên và hơn 4.000 nhà nghiên cứu. Trường đại học này
thumb|right|Tác phẩm [[Quân Vương (sách) của Niccolò Machiavelli là một tiền đề cho những tư tưởng chính trị hiện thực.]] **Chủ nghĩa hiện thực** (tiếng Anh: realism) là một trường phái lý thuyết trong ngành
**Franz Karl Joseph của Áo** (17 tháng 12 năm 1802 - 8 tháng 3 năm 1878) là thành viên của Vương tộc Habsburg-Lothringen. Ông là cha của hai hoàng đế: Franz Joseph I của Áo
**Alexander Ypsilantis**, **Ypsilanti**, hay **Alexandros Ypsilantis** (; ; ; 1792—1828) là một thành viên của gia đình nổi tiếng Phanariotes, Vương công của Các Công quốc vùng Danube, một viên Sĩ quan cao cấp của