✨Napoléon II

Napoléon II

Napoléon II (Napoléon François Joseph Charles Bonaparte; 20 tháng 3 năm 1811 – 22 tháng 7 năm 1832) là Hoàng đế Pháp (tranh chấp) trong vài tuần vào năm 1815. Là con trai của Hoàng đế Napoléon I và Maria Ludovica của Áo, ông từng là Hoàng tử Đế quốc Pháp và Vua của Rome kể từ khi sinh ra. Sau khi cha qua đời, ông sống phần đời còn lại ở Viên và được biết đến trong triều đình Áo với cái tên Franz, Công tước xứ Reichstadt trong cuộc đời trưởng thành của mình (từ phiên bản tiếng Đức của tên riêng thứ hai của ông, cùng với tước hiệu mà ông là được hoàng đế Áo ban hành năm 1818). Sau khi ông được đặt cho biệt danh L'Aiglon ("Đại bàng") sau vở kịch nổi tiếng của Edmond Rostand, L'Aiglon.

Khi Hoàng đế Napoléon I cố gắng thoái vị vào ngày 4 tháng 4 năm 1814, ông nói rằng con trai ông sẽ cai trị với tư cách là hoàng đế. Tuy nhiên, những người chiến thắng trong Liên minh thứ 6 từ chối thừa nhận con trai ông là người kế vị, và Napoléon I buộc phải thoái vị vô điều kiện vài ngày sau đó. Mặc dù Napoléon II chưa bao giờ thực sự cai trị nước Pháp, nhưng ông đã nhanh chóng trở thành Hoàng đế của nước Pháp sau sự sụp đổ lần thứ hai của cha mình. Ông sống phần lớn cuộc đời ở Viên và chết vì bệnh lao ở tuổi 21.

Em họ của ông, Louis-Napoléon Bonaparte, đã thành lập Đệ Nhị Đế chế Pháp vào năm 1852 và cai trị với đế hiệu là Napoléon III, điều này muốn nói rằng ông công nhận và tôn trọng Đế hiệu Napoleon II của anh họ mình.

Thời thơ ấu

thumb|[[Maria Ludovica của Áo|Hoàng hậu Marie Louise và con trai bà là Napoléon, Vua của Rome, vữ bởi François Gérard, 1813]] Napoléon II sinh ngày 20 tháng 3 năm 1811, tại Cung điện Tuileries, là con trai của Hoàng đế Napoléon I và Hoàng hậu Marie Louise. Cùng ngày, ông đã trải qua nghi lễ ondoiement (một nghi lễ truyền thống của Pháp là một lễ rửa tội đơn giản không kèm theo các nghi lễ bổ sung thông thường) bởi Hồng y Joseph Fesch với tên đầy đủ là Napoléon François Charles Joseph. Lễ rửa tội, lấy cảm hứng từ lễ rửa tội của Louis, Đại thái tử của Pháp, được tổ chức vào ngày 9 tháng 6 năm 1811 tại Nhà thờ Đức Bà Paris. Vào ngày 4 tháng 4 năm 1814, ông thoái vị để nhường ngôi cho đứa con trai ba tuổi của mình sau Chiến dịch Sáu ngày và Trận Paris (1814). Đứa trẻ trở thành Hoàng đế của Pháp dưới đế hiệu là Napoléon II. Tuy nhiên, vào ngày 6 tháng 4 năm 1814, Napoléon I thoái vị hoàn toàn và từ bỏ không chỉ các quyền của mình đối với ngai vàng nước Pháp mà còn cả quyền của con cháu ông. Hiệp ước Fontainebleau năm 1814 trao cho đứa trẻ quyền sử dụng tước hiệu Công tử xứ Parma, Piacenza và Guastalla, và mẹ của cậu được phong là Nữ công tước xứ Parma, Piacenza và Guastalla.

Người thừa kế Công quốc Parma (1814)

Sau Chiến dịch Pháp và việc chiếm được Paris, Marie Louise và con trai bà cư trú ở Rambouillet, sau đó ở Blois và Hoàng đế Napoléon thì đang ở Fontainebleau.

Vào ngày 4 tháng 4 năm 1814, Napoléon đã ký một đạo luật thoái vị có điều kiện để bảo vệ quyền kế thừa ngai vàng cho con trai mình. Vào ngày 6 tháng 4 năm 1814, Napoléon cuối cùng đã phải từ bỏ mọi quyền kế vị ngai vàng Pháp của Vương tộc Bonaparte, Thượng viện từ chối duy trì chế độ đế quốc để ủng hộ việc khôi phục Nhà Bourbon. Do đó, Hoàng tử Napoléon trẻ tuổi đã không trở thành hoàng đế vào tháng 4 năm 1814, giữa thời điểm thoái vị có điều kiện vào ngày 4 tháng 4 năm 1814 và thoái vị vô điều kiện vào ngày 6 tháng 4 năm 1814. Cựu hoàng Napoléon từ biệt quân đội của mình vào ngày 20 tháng 4 năm 1814 tại Fontainebleau và lên đường đến đảo Elba. Ông đã từ chối cho vợ và con trai đi lưu đầy cùng mình

Năm 1815, sau khi phục hoàng trong Triều đại 100 này và thất bại tại Trận Waterloo, Hoàng đế Napoléon I thoái vị lần thứ hai để nhường ngôi cho cậu con trai bốn tuổi mà ông chưa gặp lại kể từ khi bị đày đến Đảo Elba. Một ngày sau khi Napoléon thoái vị, một Ủy ban Chính phủ gồm 5 thành viên nắm quyền cai trị nước Pháp, chờ đợi sự trở lại của Vua Louis XVIII của Vương tộc Bourbon, người đang ở Le Cateau-Cambrésis. Ủy ban nắm quyền trong hai tuần, nhưng chưa bao giờ chính thức triệu tập Napoléon II lên làm Hoàng đế hoặc bổ nhiệm một nhiếp chính vương. Việc quân Đồng minh tiến vào Paris vào ngày 7 tháng 7 đã nhanh chóng chấm dứt mong muốn của những người ủng hộ ông. Napoléon II đang cư trú tại Áo với mẹ.

Vương tộc Bonaparte phục hoàng ngai vàng nước Pháp vào năm 1852 sẽ là Louis-Napoléon, con trai của Louis I, Vua Hollan, em trai của Hoàng đế Napoleon I. Ông lấy đế hiệu là Napoléon III.

Cuộc sống ở Áo

thumb|Được vẽ bởi [[Moritz Daffinger]] Từ mùa xuân năm 1814 trở đi, Napoléon sống ở Đế quốc Áo và được biết đến với cái tên "Franz", một từ cùng gốc trong tiếng Đức với tên thứ hai của ông, François. Năm 1818, ông được ông ngoại là Hoàng đế Francis phong tước hiệu Công tước xứ Reichstadt. Ông được đội ngũ gia sư quân sự giáo dục và phát triển niềm đam mê binh nghiệp, mặc bộ quân phục thu nhỏ giống như của cha mình và thực hiện các thao tác trong cung điện. Vào năm 8 tuổi, các gia sư đã cho ông thấy rõ rằng ông đã chọn nghề nghiệp của mình.

Đến năm 1820, Napoléon đã hoàn thành chương trình tiểu học và bắt đầu huấn luyện quân sự, học tiếng Đức, tiếng Ý và toán học cũng như được rèn luyện thể chất nâng cao. Sự nghiệp quân sự chính thức của ông bắt đầu ở tuổi 12, vào năm 1823, khi ông được phong làm thiếu sinh quân trong Quân đội Áo. Lời kể từ các gia sư của ông mô tả Napoléon là người thông minh, nghiêm túc và tập trung. Ngoài ra, ông ấy còn là một thanh niên rất cao: Napoleon đã cao tới gần 6 ft 0 in (1,83 m) vào năm 17 tuổi.

Năm 1822, Bốn trung sĩ của La Rochelle bị xử tử vì cố gắng đưa Napoléon II trở lại ngai vàng, mặc dù không rõ họ đã phạm tội theo chủ nghĩa Bonapartist ở mức độ nào. Không có bằng chứng nào cho thấy Napoléon II tán thành cuộc nổi dậy.

Sự nghiệp quân sự mới chớm nở của ông đã gây ra một số mối quan tâm và sự mê hoặc đối với các chế độ quân chủ ở Châu Âu và các nhà lãnh đạo Pháp về khả năng ông trở lại Pháp. Tuy nhiên, ông không được phép đóng vai trò chính trị nào mà thay vào đó được Thủ tướng Áo Klemens von Metternich sử dụng để thương lượng với Pháp nhằm giành lợi thế cho Đế chế Áo. Lo sợ bất kỳ ai trong gia đình Bonaparte sẽ giành lại quyền lực chính trị, Metternich thậm chí còn từ chối yêu cầu Franz chuyển đến nơi có khí hậu ấm áp hơn ở Bán đảo Ý. Ông lại nhận được một lời từ chối khác khi ông nội từ chối cho phép ông gia nhập quân đội đến Ý để dẹp loạn.

Sau cái chết của cha dượng, Adam Albert von Neipperg, và tiết lộ rằng mẹ ông đã sinh ra hai đứa con ngoài giá thú cho Neipperg trước khi họ kết hôn, Franz ngày càng xa cách mẹ và cảm thấy rằng gia đình người Áo đang giữ mình lại để tránh tranh gây cãi chính trị. Ông nói với bạn mình, Anton von Prokesch-Osten, ''"Nếu Joséphine là mẹ tôi thì cha tôi đã không được chôn cất tại Saint Helena, và tôi cũng không nên có mặt ở Viên. Mẹ tôi hiền lành nhưng yếu đuối; cô ấy không phải là người vợ mà cha tôi xứng đáng có được".

Cái chết

thumb|Chân dung người chết, được vẽ bởi [[Franz Xaver Stöber]] Năm 1831, Franz được giao quyền chỉ huy một tiểu đoàn Áo, nhưng ông chưa bao giờ có cơ hội phục vụ với bất kỳ tư cách có ý nghĩa nào. Năm 1832, ông bị viêm phổi và phải nằm liệt giường vài tháng. Sức khỏe yếu kém của ông cuối cùng đã ập đến và vào ngày 22 tháng 7 năm 1832, Franz qua đời vì bệnh lao tại Dinh Schönbrunn ở Viên. Ông không có con; do đó, tuyên bố của Napoléon về ngai vàng nước Pháp được chuyển cho chú của ông là Joseph Bonaparte và sau đó là em họ của ông, Louis-Napoléon Bonaparte, người sau này đã thành lập và trị vì Đệ Nhị Đế chế Pháp, với đế hiệu là Napoléon III.

Việc xử lý hài cốt của ông

thumb|Lăng mộ của Napoléon II tại [[Điện Invalides, Paris]] Vào ngày 15 tháng 12 năm 1940, Adolf Hitler ra lệnh chuyển hài cốt của Napoléon II từ Viên đến mái vòm của Điện Invalides ở Paris. Hài cốt của Napoléon I đã được đưa về Pháp vào tháng 12 năm 1840, vào thời điểm Chế độ quân chủ tháng Bảy. Vào tháng 12 năm 1969, hài cốt của Napoléon II được chuyển xuống hầm mộ của Napoléon.

Trong khi phần lớn hài cốt của ông được chuyển đến Paris vào năm 1940, trái tim và ruột của ông vẫn ở Viên, nơi chôn cất truyền thống của các thành viên trong Vương tộc Habsburg. Trái tim của ông ở Urn 42 của Herzgruft ('Heart Crypt'), và nội tạng của ông ở Urn 76 của Ducal Crypt.

Di sản

  • Năm 1900, Edmond Rostand viết vở kịch L'Aiglon về cuộc đời ông.
  • Nhà soạn nhạc người Serbia là Petar Stojanović đã sáng tác vở operetta Napoleon II: Herzog von Reichstadt, được công chiếu lần đầu tại Vienna vào những năm 1920.
  • Victor Tourjansky đã đạo diễn một bộ phim nói tiếng Pháp có tựa đề L'Aiglon vào năm 1931, đồng thời ông cũng đạo diễn một phiên bản tiếng Đức riêng biệt.
  • Arthur Honegger và Jacques Ibert hợp tác trong vở opera L'Aiglon, công chiếu năm 1937.
  • Nhà báo Henri Rochefort nói đùa rằng Napoléon II, chưa bao giờ thực sự cai trị, là nhà lãnh đạo giỏi nhất của Pháp, vì ông không gây ra chiến tranh, thuế má hay chế độ chuyên chế.[12]

Ông được chú ý nhờ tình bạn với Công chúa Sophie của Bayern thuộc Vương tộc Wittelsbach. Thông minh, đầy tham vọng và có ý chí mạnh mẽ, Sophie có rất ít điểm chung với chồng là Đại công tước Franz Karl của Áo, em trai của mẹ Napoléon II, Hoàng hậu Marie Louise. Có tin đồn về mối tình giữa Sophie và Napoléon II, cũng như khả năng con trai thứ hai của Sophie là Maximiliano I của México, sinh năm 1832, là kết quả của cuộc tình này.

Vinh danh

  • : Hiệp sĩ Thập tự lớn của Huân chương Thánh Stephen, 1811
  • Tập tin:Flag of France.svg Đệ Nhất Đế chế Pháp: Đại bàng lớn của Bắc Đẩu Bội tinh
  • Tập tin:Flag of the Napoleonic Kingdom of Italy.svg Vương quốc Italy: Hiệp sĩ của Huân chương Vương miện Sắt, hạng nhất
  • Tập tin:Flag of the Duchy of Parma.svg Công quốc Parma: Hiệp sĩ Thấp tự lớn của Huân chương quân sự thiêng liêng Constantinian của Saint George

Huy hiệu

Image:Blason Roi de Rome.svg|Vua của Rome
(181114) Image:Grandes Armes Impériales (1804-1815)2.svg|Hoàng đế Pháp (titular ruler) Image:Coat of Arms of the Duke of Reichstadt (Variant 2).svg|Công tước xứ Reichstadt (181832)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Napoléon II** (_Napoléon François Joseph Charles Bonaparte_; 20 tháng 3 năm 1811 – 22 tháng 7 năm 1832) là Hoàng đế Pháp (tranh chấp) trong vài tuần vào năm 1815. Là con trai của Hoàng
**Napoléon III** hay **Napoléon Đệ tam**, cũng được biết như **Louis-Napoléon Bonaparte** (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Napoléon-Louis Bonaparte** (11 tháng 10 năm 1804 - 17 tháng 3 năm 1831) là vị vua thứ 2 của Vương quốc Holland, với vương hiệu **Louis II** (tiếng Hà Lan: _Lodewijk II_), nhưng ở ngôi
**Mahmud II** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman: محمود ثانى, chuyển tự: Maḥmûd-u s̠ânî, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: II. Mahmud; 20 tháng 7 năm 1785 – 1 tháng 7 năm 1839) là Sultan của Đế chế
**Leopoldo II** (tiếng Ý: _Leopoldo Giovanni Giuseppe Francesco Ferdinando Carlo_; tiếng Đức: _Leopold Johann Joseph Franz Ferdinand Karl_; tiếng Anh là _Leopold John Joseph Francis Ferdinand Charles_; 3 tháng 10 năm 1797 – 29 tháng
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
**Thân vương Napoléon Joseph Charles Paul Bonaparte** (9 tháng 9 năm 1822 – 17 tháng 3 năm 1891), thường được gọi là **Napoléon-Jérôme Bonaparte** hoặc **Jérôme Bonaparte**, là con trai thứ hai của Jérôme của
**Louis Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh **Luigi Buonaparte**; 2 tháng 9 năm 1778 - 25 tháng 7 năm 1846) là em trai của Napoléon I, Hoàng đế của Đệ Nhất Đế chế Pháp. Từ năm
**Léopold II của Bỉ** (tiếng Pháp: _Léopold Louis Philippe Marie Victor_, tiếng Hà Lan: _Leopold Lodewijk Filips Maria Victor_; 9 tháng 4 năm 1835 – 17 tháng 12 năm 1909) là vị vua thứ hai
**Louis Jérôme Victor Emmanuel Léopold Marie** sinh ngày 23 tháng 1 năm 1914 và mất ngày 3 tháng 5 năm 1997. Ông là một thành viên của Hoàng tộc Bonaparte và là người tuyên bố
**Cossacks II: Napoleonic Wars** (tạm dịch: _Cô-dắc 2 - Chiến tranh Napoléon_) là phiên bản thứ tư của sê-ri game chiến lược thời gian thực _Cossacks_ do hãng GSC Game World phát triển và cdv
**Friedrich August II của Sachsen** ( _von Sachsen_; 18 tháng 5 năm 1797 tại Dresden – 9 tháng 8 năm 1854 tại Brennbüchel, Karrösten, Tirol), là vị vua đời thứ 3 của Vương quốc Sachsen,
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**_Empire Earth II: The Art of Supremacy_** (tạm dịch: _Đế quốc Địa cầu 2 - Nghệ thuật Bá quyền_) viết tắt **EE II: AOS** hoặc **AOS**, là phiên bản mở rộng chính thức của trò
**Carlo Ludovico Ferdinando di Borbone-Parma** (22 tháng 12 năm 1799 – 16 tháng 4 năm 1883), còn được viết là **Charles-Louis** theo tiếng Pháp hoặc **Carlos Luis** theo tiếng Tây Ban Nha, là Vua của
**Victor Emanuel II** (tiếng Ý: _Vittorio Emanuele Maria Alberto Eugenio Ferdinando Tommaso_, 14 tháng 3 năm 1820 - 9 tháng 1 năm 1878) là vua của Piemonte, Savoia, và Sardegna giai đoạn 1849-1861. Ngày 17
**Dom Camillo Filippo Ludovico Borghese, Thân vương xứ Sulmona và Rossano, Công tước và Thân vương xứ Guastalla** (19 tháng 07 năm 1775 - 09 tháng 05 năm 1832) là một thành viên của Gia
**Joséphine de Beauharnais** (phiên âm tiếng Việt: **Giô-dê-phin**; ; tên khai sinh là **Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie**; 23 tháng 6 năm 1763 – 29 tháng 5 năm 1814) là Hoàng hậu của
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi
**August II Mạnh mẽ** (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu **Friedrich August I**. Ông
**_Empire Earth II_** (tạm dịch: _Đế quốc Địa cầu 2_) viết tắt **_EE2_**, là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực do hãng Mad Doc Software phát triển và Vivendi
**Ludwig II** (26 tháng 12 năm 1777 – 16 tháng 6 năm 1848) là Đại công tước đời thứ 2 của xứ Hessen và Rhein, tại vị từ ngày 6 tháng 4 năm 1830 đến
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**_Europa Universalis II_** là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược theo lượt xây dựng đế chế dựa trên lịch sử châu Âu và thế giới kéo dài khoảng thời gian từ năm
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
**Trận Aspern-Essling** diễn ra từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 5 năm 1809 giữa 2 làng Aspern và Essling gần Viên (Áo), trong chiến tranh Liên minh thứ năm và Chiến tranh Napoléon. Tại
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Jérôme-Napoléon Bonaparte** (Tên khai sinh: Girolamo Buonaparte; 15 tháng 11 năm 1784 - 24 tháng 6 năm 1860) là em trai út của Hoàng đế Napoleon I, được đưa lên làm vua của Vương quốc
**Liên minh thứ ba** là một liên minh quân sự gồm các vương quốc Anh, Nga, Áo, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Napoli và Sicilia chống lại hoàng đế Napoléon Bonaparte và Đệ nhất đế
**Eugène Rose de Beauharnais, Công tước xứ Leuchtenberg** (; 03/09/1781 - 21/02/1824), là con trai duy nhất của Alexandre François Marie, Tử tước Beauharnais và Joséphine de Beauharnais, người vợ đầu tiên của Hoàng đế
**Các quốc vương và hoàng đế của Pháp** là danh xưng để chỉ các nhà cai trị với tư cách là quân chủ của lãnh thổ Pháp, bắt đầu trị vì từ thời Trung Cổ
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Vương quốc Sicilia** (tiếng La Tinh: _Regnum Siciliae_; tiếng Ý: _Regno di Sicilia_; tiếng Sicilia: _Regnu di Sicilia_) là một nhà nước tồn tại ở phía Nam Bán đảo Ý và trong một thời gian
**Hoàng đế của người Pháp** (), thường được gọi tắt là **Hoàng đế Pháp**, là chức vụ của người đứng đầu và nắm quyền lãnh đạo của Đệ nhất và Đệ Nhị Đế chế Pháp.
**Cách mạng tháng Bảy** (Pháp) còn được gọi là **Cách mạng Pháp lần thứ hai** hoặc **_Trois Glorieuses_** (_Ba ngày vinh quang)_ hay **Cách mạng năm 1830** là cuộc cách mạng tại Pháp, diễn ra
**Trận Trafalgar** (21 tháng 10 năm 1805) là một trận thủy chiến giữa Hải quân Hoàng gia Anh và Liên quân Pháp - Tây Ban Nha. Là một phần của cuộc chiến tranh Liên minh
**Liên minh thứ sáu** bước đầu gồm Vương quốc Anh và Đế quốc Nga, sau đó là Phổ, Áo, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các vương quốc Bayern, Württemberg, Sachsen (từ
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Liên minh thứ tư** được hình thành chỉ vài tháng sau khi Liên minh thứ ba tan rã. Liên minh thứ tư gồm có các Vương quốc Anh, Nga, Phổ, Thụy Điển, Sicilia nhằm chống
**Vua của Ý **(, ) là một chức tước, mà nhiều nhà cai trị tại bán đảo Ý nắm giữ kể từ khi Đế quốc La Mã sụp đổ. Tuy nhiên từ thế kỷ VI
Điện Tàn phế Invalides **Điện Invalides** phiên âm: _Ăng-va-li(đơ)_, tạm dịch là **Điện Thương binh** hay **Điện Tàn phế**) là một công trình nổi tiếng của thành phố Paris. Được vua Louis XIV cho xây
Cung điện Tuileries năm 1857 **Cung điện Tuileries** (phiên âm Tiếng Việt: _Tuy-lơ-ri_, _Túy Liên_) là một cung điện hoàng gia Pháp ở Paris, nhưng hiện nay không còn tồn tại. Bắt đầu được xây
**Trận Berezina** (hay **trận Beresina**) là một trận chiến trong cuộc chiến tranh Pháp-Nga (1812) diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 11 năm 1812 tại thị trấn Borisov (nay thuộc Belarus) bên
**Trận Leipzig** hay còn có tên gọi khác là **Trận Liên Quốc gia** và là một quả đắng tiếp tục thể hiện hạn chế của tài nghệ của ông kể từ sau trận Borodino diễn
:''Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva **Trận Borodino** (, _Borodinskoe srazhenie_; phiên âm: **Bô-rô-đi-nô**); hoặc còn gọi là **Trận Sông Moskva** () giữa quân đội